Trà Long Tỉnh được hãm trong chén trà | |
Phân loại | Thức uống dùng nóng hoặc lạnh |
---|---|
Quốc gia xuất xứ | Trung Quốc |
Ra mắt | Lần đầu tiên được ghi chép tài liệu từ Trung Quốc vào năm 59 trước Công nguyên, mặc dù có lẽ bắt nguồn từ sớm hơn |
Trà (hoặc chè) là loại đồ uống phổ biến đứng thứ hai trên toàn cầu, chỉ sau nước lọc. Để chế biến trà, người ta ngâm lá, chồi, hoặc cành của cây trà (Camellia sinensis) vào nước nóng trong khoảng thời gian từ vài phút đến vài giờ. Lá trà có thể trải qua quá trình oxy hóa (ủ để lên men), sấy khô, phơi, hoặc được kết hợp với các loại thảo mộc, hoa, gia vị, hoặc trái cây trước khi pha vào nước nóng. Trong các loại trà từ Camellia sinensis, có bốn loại chính: Trà đen, Trà Ô Long, Trà xanh và Trà trắng. Trà chứa caffeine, theophylline và chất chống oxy hóa (antioxidant) tự nhiên, gần như không có mỡ, carbohydrate hay protein. Trà có hương thơm đặc trưng và vị hơi đắng, chát.
Trồng và thu hoạch
Camellia sinensis là một loài cây thường xanh, chủ yếu sống ở các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Một số giống trà còn có thể thích nghi với khí hậu biển và được trồng ở các vùng phía bắc như Pembrokeshire ở Vương quốc Anh và Washington ở Hoa Kỳ.
Cây trà được nhân giống từ hạt hoặc cắt cành; cần khoảng 4 đến 12 năm để cây ra hạt và khoảng 3 năm để một cây mới đủ trưởng thành cho thu hoạch. Cây trà yêu cầu ít nhất 1270 mm lượng mưa hàng năm và môi trường đất chua. Những cây trà chất lượng cao thường được trồng ở độ cao lên đến 1.500 m so với mực nước biển, nơi chúng phát triển chậm hơn nhưng có hương vị đặc biệt hơn.
Hai loại chính của cây trà là Camellia sinensis var. sinensis, thường được sử dụng làm trà ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, và Camellia sinensis var. assamica, được sử dụng trong Pu-erh và trà Ấn Độ (không bao gồm Darjeeling). Trong các giống này, có nhiều chủng và giống vô tính hiện đại. Kích thước lá là tiêu chuẩn chính để phân loại, với 3 loại cơ bản: Assam, có lá lớn nhất; trà Trung Quốc, có lá nhỏ nhất; và trà Campuchia, có lá kích thước trung bình.
Cây trà có thể cao đến 16 m nếu không bị cắt tỉa, nhưng thường được cắt ngắn để chỉ cao đến thắt lưng, thuận tiện cho việc thu hoạch. Việc tỉa cành thường xuyên giúp cây cho nhiều chồi non và nâng cao chất lượng trà. Chỉ 1-2 inch lá trên cùng của cây được chọn để thu hoạch. Một cây trưởng thành có thể cho thu hoạch lá từ 7 đến 15 ngày một lần trong mùa phát triển.
Quá trình sản xuất
Vào năm 2003, tổng sản lượng trà toàn cầu đạt 3,21 triệu tấn. Đến năm 2010, con số này đã vượt qua 4,52 triệu tấn. Các quốc gia sản xuất trà hàng đầu gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Sri Lanka và Thổ Nhĩ Kỳ.
Dưới đây là bảng thống kê sản lượng trà (tấn) theo các quốc gia sản xuất nhiều nhất. Dữ liệu được lấy từ FAO của Liên Hợp Quốc cập nhật đến tháng 2 năm 2012.
Hạng | Quốc gia
|
2008 | 2009 | 2010 | 2011 |
---|---|---|---|---|---|
1 | Trung Quốc | 1.274.984 | 1.375.780 | 1.467.467 | 1.640.310 |
2 | Ấn Độ | 987.000 | 972.700 | 991.180 | 1.063.500 |
3 | Kenya | 345.800 | 314.100 | 399.000 | 377.912 |
4 | Sri Lanka | 318.700 | 290.000 | 282.300 | 327.500 |
5 | Thổ Nhĩ Kỳ | 198.046 | 198.601 | 235.000 | 221.600 |
6 | Việt Nam | 173.500 | 185.700 | 198.466 | 206.600 |
7 | Iran | 165.717 | 165.717 | 165.717 | 162.517 |
8 | Indonesia | 150.851 | 146.440 | 150.000 | 142.400 |
9 | Argentina | 80.142 | 71.715 | 88.574 | 96.572 |
10 | Nhật Bản | 96.500 | 86.000 | 85.000 | 82.100 |
Tổng | Thế giới | 4.211.397 | 4.242.280 | 4.518.060 | 4.321.011 |