Ốc bươu vàng | |
---|---|
Pomacea canaliculata, đường kính vỏ 8 cm | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum
| Mollusca |
Lớp (class) | Gastropoda |
(không phân hạng) | nhánh Caenogastropoda nhóm không chính thức Architaenioglossa |
Liên họ (superfamilia) | Ampullarioidea |
Họ (familia) | Ampullariidae |
Chi (genus) | Pomacea |
Phân chi (subgenus) | Pomacea |
Loài (species) | P. canaliculata |
Danh pháp hai phần | |
Pomacea canaliculata (Lamarck, 1819) |
Ốc bươu vàng (tên khoa học: Pomacea canaliculata), là một loài ốc thuộc họ Ampullariidae, lớp Chân bụng (Gastropoda), ngành Thân mềm (Mollusca), có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ. Loài này đã được nhập khẩu vào Việt Nam vào những năm 1985-1988 để nuôi dưỡng nhưng đã phát tán vào môi trường tự nhiên và trở thành một trong những loài gây hại nghiêm trọng nhất đối với nền nông nghiệp Việt Nam.
Đặc điểm sinh học
Cấu tạo
Ốc trưởng thành có kích thước lớn, hình dạng tròn mập, bao gồm đầu, thân và chân. Đầu có hai cặp xúc tu (một cặp dài và một cặp ngắn). Thân nằm bên trên chân và là một khối xoắn kín trong vỏ. Chân rộng, hình đĩa, màu trắng kem nằm ở phía bụng. Mặt lưng của chân có nắp vỏ bảo vệ. Đầu và chân thường thò ra ngoài vỏ khi di chuyển. Toàn bộ cơ thể của ốc nằm trong lớp vỏ.
Con đực có vảy miệng hơi nhô gợn sóng, con cái có vảy miệng phẳng hơi lõm xuống. Ốc bươu vàng thường ẩn náu dưới bùn, bờ ao, bờ mương, hồ khó phát hiện. Vào ban đêm, chúng lên mặt nước để cắn ngang thân cây lúa, ăn trụi thành từng đám, làm hư hại nhiều diện tích lúa hoàn toàn.
Ốc bươu vàng là một nguồn thực phẩm giàu đạm, khoáng và các vitamin... thường được sử dụng như một phần dinh dưỡng bổ sung giàu đạm, khoáng và vitamin cho gia súc gia cầm trong khẩu phần thường xuyên.
Sinh sản
Ốc bươu vàng thuộc nhóm thụ tinh trong, thường đẻ trứng vào chiều tối. Khi đẻ, chúng leo lên giá thể cao trên mặt nước, trứng bám thành từng chùm màu hồng, có khoảng từ 120 - 500 trứng. Trứng nở sau khoảng 12 - 15 ngày, nở toàn bộ trong 2 - 7 ngày. Tỉ lệ nở khoảng 70%, tỉ lệ sống sau khi 10 ngày tuổi là khoảng 80%. Tuổi trưởng thành nhanh chóng chỉ sau 100 ngày, thời gian tái phát dục ngắn, khoảng 3 ngày. Khi thời tiết ấm lên, đây cũng là thời điểm ốc bươu vàng sinh sản mạnh mẽ.
Tuổi thọ của ốc bươu vàng dao động từ 2 đến 4 năm. Trong quần thể, tỉ lệ con đực và con cái khoảng 1/4. Tốc độ sinh trưởng của chúng phụ thuộc vào loại thức ăn có sẵn, có thể nhanh chóng hoặc chậm hơn. Ốc bươu vàng ăn chủ yếu thực vật, với các món ưa thích như xà lách, bèo tấm, mạ non, rau muống, vv... Loài ốc này là mối đe dọa lớn đối với cây lúa và dưa hấu, đặc biệt là khi cây mới lớn dưới 3 tuần có thể bị ốc ăn hết toàn bộ.
Ốc bươu vàng giao phối với các loài ốc bươu vàng bản địa và ốc lác. Kết quả là thế hệ ốc mới có những đặc điểm khác biệt như sự cứng cáp hơn (kế thừa từ ốc bươu vàng bản địa), cấu trúc vỏ + màu trứng + kích thước trứng + đặc điểm sinh sản giống như ốc bươu vàng gốc. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm của các loài ốc bản địa.
Tại Việt Nam
Ốc bươu vàng được sử dụng làm thức ăn cho tôm, cá và gia súc tại Việt Nam và có thể chế biến thành nhiều món ngon. Chúng được nhập khẩu vào Việt Nam để nuôi dưỡng và sản xuất khoảng năm 1988. Sau đó, chúng thoát ra môi trường tự nhiên và phát triển mạnh mẽ nhờ vào điều kiện sống lý tưởng, trở thành loài gây hại nghiêm trọng đối với nông nghiệp ở hầu hết các tỉnh miền Nam. Có thể nói, hiện nay ốc bươu vàng vẫn là loài gây hại nghiêm trọng nhất đối với nền nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là vào mùa mưa nước nổi. Ốc bươu vàng đã bị cấm nuôi trong nước từ lâu.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc vẫn tiếp tục mua lại ốc bươu vàng, dẫn đến sự gia tăng nhu cầu thu gom ốc bán cho thương lái Trung Quốc. Tuy nhiên, để bán ốc cho những đại lý thu mua, người dân phải thực hiện nhiều bước công đoạn như đun sôi, luộc, khêu và bỏ vỏ ốc bươu vàng, gây ra vấn đề về môi trường với lượng vỏ ốc. Điều này cho thấy tình trạng phát triển thương mại của ốc bươu vàng đã gây ra những hệ lụy đáng báo động.