
Ôn Hi Quý phi 溫僖貴妃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Khang Hi Đế Quý phi | |||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | ? | ||||
Mất | 3 tháng 11 năm 1694 | ||||
An táng | Phi viên tẩm của Cảnh lăng (景陵), Thanh Đông lăng | ||||
Phu quân | Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Thân phụ | Át Tất Long |
Ôn Hi Quý Phi (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 1694), thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, dòng dõi Nữu Hỗ Lộc, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và là em gái của Hoàng hậu thứ hai của ông, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu.
Tiểu sử
Xuất thân cao quý

Ôn Hi Quý Phi xuất thân từ dòng họ Nữu Hỗ Lộc, một gia tộc danh giá ở Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Cô là con gái thứ của Thái sư Quả Nghị công Át Tất Long và là em gái của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, Đệ nhị Chính cung của Khang Hi Đế, sau khi Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu qua đời.
Vào thời điểm đó, xuất thân của Ôn Hi Quý Phi rất uy quyền. Dòng họ Nữu Hỗ Lộc vốn là một thế gia danh tiếng tại Trường Bạch Sơn, giữ chức vụ 'Lộ trưởng' tại địa phương Anh Ngạch. Tổ phụ của cô, Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô, là một trong những khai quốc công thần của nhà Thanh và thường xuyên chỉ huy đội quân Tương Hoàng kỳ dưới trướng Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đạt nhiều chiến thắng và được thờ phụng đặc biệt tại Thái miếu.
Nhờ công lao lớn lao, gia tộc Nữu Hỗ Lộc nhánh Hoằng Nghị công được xem là danh môn hàng đầu trong Bát kỳ Mãn Châu. Các con của ông đều nắm giữ những chức vụ quan trọng và có hôn nhân tốt. Con gái lớn của ông trở thành Nguyên phi của Thanh Thái Tông, trong khi con gái út kết hôn với Trịnh Hiến Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng.
Gia thế uy danh
Ngạch Diệc Đô có 16 người con trai, và phụ thân của Ôn Hi Quý Phi, Át Tất Long, là con trai thứ 16 của ông với Hòa Thạc Công chúa Mục Khố Thạp, con gái thứ tư của Thanh Thái Tổ.
Từ thời Thanh Thái Tông, Át Tất Long đã lập nhiều chiến công. Đến thời Thuận Trị, nhờ công chém cháu của Lý Tự Thành là Lý Cẩm, ông được thăng chức thành 'Nhị đẳng Giáp Lạt Chương Kinh' (二等甲喇章京). Sau đó, ông được thăng chức 'Nhất đẳng Công' nhờ tập tước của Đồ Nhĩ Cách (图尔格), đồng thời giữ chức 'Thảo luận chính sự đại thần' và 'Thị vệ Nội đại thần', đồng thời được phong thêm 'Thái tử Thái bảo' (太子太傅). Khi Thuận Trị Đế qua đời, Át Tất Long cùng Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp và Ngao Bái phụ chính cho Khang Hi Đế, trở thành một trong Tứ trụ đại thần quyền lực nhất. Khi Khang Hi Đế tự mình cầm quyền, ông được phong tặng [Nhất đẳng Quả Nghị công; 一等果毅公] và thăng chức Thái sư.
Át Tất Long có ba người vợ chính. Người đầu tiên là con gái của Dĩ cách Anh Thân vương A Tế Cách; người thứ hai là con gái của Dĩnh Nghị Thân vương Tát Cáp Lân; và người sau cùng là Ba Nhã Lạp thị (巴雅拉氏), mẹ ruột của A Linh A (阿灵阿), em trai út của bà. Mẹ đẻ của bà thuộc bộ tộc Thư Thư Giác La thị (舒舒觉罗氏), là trắc thất của Át Tất Long. Thư Thư Giác La thị cũng là mẹ của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu và Pháp Khách (法喀). Vì hai con trai đích tử của Át Tất Long mất sớm, Pháp Khách trở thành trưởng tử của ông, cưới con gái của Tông thất A Nhan Đồ (阿颜图), sau đó cưới Hách Xá Lý thị, em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu.
Quý Phi của Đại Thanh
Danh hiệu Quý Phi
Gia thế của Nữu Hỗ Lộc thị rất hiển hách, nhưng không rõ khi nào họ vào cung. Hậu cung thời Khang Hi còn sơ khai, nhiều phi tần vào cung từ sớm chỉ được gọi là Thứ phi. Có thể Nữu Hỗ Lộc thị cũng vậy, giống như Bình phi Hách Xá Lý thị - em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, tuy không có danh vị nhưng được đãi ngộ như Phi. Rất có thể Nữu Hỗ Lộc thị cũng được đãi ngộ tương tự nhờ là em gái của Hoàng hậu.
Vào ngày 25 tháng 10 năm Khang Hi thứ 20 (1682), Quý phi Đông thị được phong làm Hoàng quý phi trong lễ phong hậu cung, và Thứ phi Nữu Hỗ Lộc thị được phong làm Quý phi. Lúc này, chị gái của bà, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, đã qua đời được ba năm.
Vào ngày 20 tháng 12, Đại học sĩ Minh Châu (明珠) nhận chỉ thị cầm cờ và thực hiện nghi thức phong chức.
Văn bản phong chức ghi:
“ |
朕惟王化始于宜家、端重宫闱之秩。坤教主乎治内、允资辅翼之贤。爰沛新恩。式循往制。咨尔钮祜禄氏。笃生勋阀。克奉芳型。秉德恭和。赋姿淑慧。佩诗书之训、声华茂著掖庭。敷纶綍之荣、宠锡用光典册。兹仰承太皇太后慈谕、以册宝、封尔为贵妃。尔其祗勤夙夜、襄壸范而弥嗣徽音。衍庆家邦、佐妇职而永膺渥眷、钦哉。 . Trẫm duy vương hóa thủy vu nghi gia, đoan trọng cung vi chi trật. Khôn giáo chủ hồ trị nội, duẫn tư phụ dực chi hiền. Viên phái tân ân. Thức tuần vãng chế. Tư nhĩ Nữu Hỗ Lộc thị. Đốc sinh huân phiệt. Khắc phụng phương hình. Bỉnh đức cung hòa. Phú tư thục tuệ. Bội thi thư chi huấn, thanh hoa mậu trứ dịch đình. Phu luân phất chi vinh, sủng tích dụng quang điển sách. Tư ngưỡng thừa Thái hoàng thái hậu từ dụ, dĩ sách bảo, phong nhĩ vi Quý phi. Nhĩ kỳ chi cần túc dạ, tương khổn phạm nhi di tự huy âm. Diễn khánh gia bang, tá phụ chức nhi vĩnh ưng ác quyến, khâm tai. |
” |
— Sách văn Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị |
Năm Khang Hi thứ 22 (1683), Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị sinh ra Hoàng thập tử Dận Ngã. Đến năm thứ 24 (1685), bà sinh thêm một con gái nhưng không may qua đời sớm do sinh thiếu tháng, chưa đầy 1 tuổi. Từ đó, bà không có thêm con cái nào nữa.
Địa vị của bà chỉ đứng sau Hoàng quý phi Đông thị (sau này là Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu). Sự nổi bật của bà có thể nhờ vào dòng dõi quý tộc và việc là em gái của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, khiến bà trở thành 'Lương phối' được Khang Hi Đế trọng vọng. Sau khi Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu qua đời vào năm 1689, Khang Hi Đế không muốn lập thêm Hoàng hậu nữa, do đó, ngoài Nhân Hiến Hoàng thái hậu, Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị là người có địa vị cao nhất trong cung.
Qua đời và truy phong
Vào ngày 3 tháng 11 năm Khang Hi thứ 33 (1694), Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị qua đời, tuổi tác không được ghi chép rõ.
Khi nhận được tin Quý phi qua đời, Khang Hi Đế đã cho tạm ngừng triều trong 3 ngày, mọi người từ Đại nội đến Tông thất đều mặc tang phục trắng và không thực hiện các nghi lễ tế thần. Theo lệnh, triều đình nghỉ 5 ngày, Hoàng thập tử Dận Ngã khi đó 11 tuổi đã cắt bím tóc, và đến ngày giỗ lớn thì cởi tang phục và cạo đầu. Hoàng đế truy tặng cho Quý phi thụy hiệu là [Ôn Hi], và bà trở thành Quý phi duy nhất trong triều đại nhà Thanh được cấp thụy hiệu riêng.
Văn thụy phong viết:
“ |
朕惟化始宜家,协赞必资乎贤媛,道崇治内助宣,允籍夫令仪,惟懿行式昭生,着珩璜之度斯,荣名载锡,殁膺纶綍之光,尔贵妃钮祜禄氏,阀阅名宗,柔嘉惠质,宅哀恪慎,勤夙夜而无违,秉性谦冲谨言,动而有则,早持躬于礼法,四德偕臧,夙禀训于诗书,六宫咸誉,慨芳规之遽谢,宜褒美之有加,特以册宝谥曰温僖贵妃。于戏,遡婉顺于掖庭,X编垂灿,閟音徽于泉壤,金石流声,灵爽有知,祗承渥眷。 . Trẫm duy hóa thủy nghi gia, hiệp tán tất tư hồ hiền viện, đạo sùng trị nội trợ tuyên, duẫn tịch phu lệnh nghi, duy ý hành thức chiêu sinh, trứ hành hoàng chi độ tư, vinh danh tái tích, một ưng luân phất chi quang. Nhĩ Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị, phiệt duyệt danh tông, nhu gia huệ chất, trạch ai khác thận, cần túc dạ nhi vô vi, bỉnh tính khiêm trùng cẩn ngôn, động nhi hữu tắc, tảo trì cung vu lễ pháp, tứ đức giai tang, túc bẩm huấn vu thi thư, lục cung hàm dự, khái phương quy chi cự tạ, nghi bao mỹ chi hữu gia. Đặc dĩ sách bảo, thụy viết Ôn Hi Quý phi. Vu hí! tố uyển thuận vu dịch đình, X biên thùy xán, bí âm huy vu tuyền nhưỡng, kim thạch lưu thanh, linh sảng hữu tri, chi thừa ác quyến. |
” |
— Sách thụy Ôn Hi Quý phi |
Vào ngày 8 tháng 9 năm Khang Hi thứ 34 (1695), kim quan của Quý phi được đưa vào Phi viên tẩm thuộc Cảnh lăng (景陵), Thanh Đông lăng.
Danh sách hậu cung
Theo 《Khâm định đại thanh hội điển tắc lệ》quyển 42, thứ tự bài vị của các hậu phi được ghi như sau:
- Ôn Hi Quý phi
- Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Ý Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi.
- Danh sách hậu phi triều Thanh
- Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu
- Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu
- Át Tất Long
- Thanh sử toàn thư - Các hậu phi và ghi chép