Dầu thô là mặt hàng có giá trị giao dịch cao nhất và là một trong những sản phẩm được sử dụng rộng rãi nhất. Trong một thế giới với nhiều người tiêu dùng và nhà sản xuất, không còn một quốc gia hoặc tổ chức nào có thể 'kiểm soát' giá dầu thô được đặt trong các thị trường toàn cầu có tính thanh khoản cao.
Nhưng điều đó không phải lúc nào cũng như vậy. Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) được thành lập vào năm 1960 nhằm bảo vệ lợi ích của các nước xuất khẩu dầu mỏ Trung Đông trong một thị trường do Mỹ chiếm ưu thế và kiểm soát vào thời điểm đó, khi Mỹ là người tiêu dùng và nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới.
Các thành viên Ả Rập của OPEC đã thể hiện sức mạnh ngày càng tăng của các nước xuất khẩu dầu mỏ vào năm 1973 với cuộc đình công dầu gây thiệt hại nhằm vào Mỹ và các nước ủng hộ Israel khác ở phương Tây. Sự kiện này đánh dấu đỉnh cao của sức mạnh của OPEC đối với thị trường dầu mỏ giữa sự suy giảm nhanh chóng của sản lượng dầu của Mỹ.
Vận mệnh của OPEC và Mỹ đã tiếp tục dao động trong những năm qua với sự bùng nổ và suy thoái của ngành dầu, và sự tái xuất của sản lượng nội địa của Mỹ dựa trên các tiến bộ trong phương pháp phá vỡ đá bằng thủy lực. Sự phát triển của sản xuất năng lượng mới ở Biển Bắc, cát dầu Canada và ngoài khơi các bờ biển châu Phi, Úc và châu Mỹ đã hạn chế sức ảnh hưởng toàn cầu của cả OPEC và các nhà sản xuất Mỹ, giữa sự tăng trưởng tiêu thụ nhanh chóng tại Trung Quốc, Ấn Độ và các nước đang phát triển khác.
Trong bài viết này, chúng tôi khám phá sự cạnh tranh lịch sử giữa OPEC và Hoa Kỳ cùng sự tiến hóa của nó.
Những điểm chính
- OPEC và OPEC+ là nhóm các nước xuất khẩu dầu mỏ sử dụng hạn ngạch cung cấp nhằm đảm bảo giá dầu cao nhất cho các thành viên của họ
- Cả hai nhóm đều đặt mục tiêu cung cấp dựa trên sự đồng thuận, mặc dù Saudi Arabia đóng vai trò quan trọng nhất với vị trí lớn nhất về xuất khẩu và có nhiều năng lực dư thừa nhất.
- OPEC được thành lập để đối phó với sự thống trị của Mỹ trên thị trường dầu mỏ vào những năm 1950, và cuộc đình công dầu mỏ Arab năm 1973-1974 đã củng cố danh tiếng của nó là một đối thủ của Mỹ.
- Thị trường dầu toàn cầu ngày càng kết nối người tiêu dùng châu Á với một nhóm rộng các nhà sản xuất OPEC và non-OPEC, quá lớn và đa dạng để bị một quốc gia hay một nhóm nào độc chiếm.
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nhà sản xuất và người tiêu dùng dầu thô hàng đầu thế giới vào năm 1960, năm OPEC được thành lập. Mặc dù nhập khẩu dầu thô của Mỹ đã đạt mức một triệu thùng mỗi ngày, nhưng giá cả lại do các công ty dầu mỏ hàng đầu của đất nước đặt ra và được bảo vệ bởi các hạn ngạch nhập khẩu.
Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch giới hạn nhập khẩu vào năm 1959, giới hạn nhập khẩu đến 9% của tiêu thụ nội địa. Năm 5 năm trước đó, một liên minh các công ty dầu mỏ Hoa Kỳ kiểm soát sản xuất dầu thô của Iran sau một cuộc đảo chính được hậu thuẫn bởi phương Tây.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của tiêu thụ dầu mỏ tại Hoa Kỳ trong những năm 1960, kết hợp với sự suy giảm của sản lượng dầu thô nội địa trong suốt những năm 1970, gia tăng sức mạnh thị trường của các nước xuất khẩu dầu bao gồm cả OPEC. Hình ảnh hàng dài tại các trạm xăng dầu tại Hoa Kỳ trong cuộc đình công dầu mỏ 1973-1974 đã củng cố quan điểm OPEC là một kẻ thù đối với người Mỹ.
Các biện pháp tiết kiệm năng lượng và nỗ lực khai thác do giá dầu cao trong những năm 1970 đã làm nảy sinh các hệ quả cho suy thoái năng lượng thập kỷ 1980.
Khi sản lượng nội địa của Hoa Kỳ phục hồi trở lại do sự phát triển nhanh chóng của các tài nguyên phiến đá bắt đầu từ năm 2011, cuộc cạnh tranh với OPEC lại nổi lên như một cuộc đua giữa các nhà sản xuất. Khi Saudi Arabia tăng sản lượng bắt đầu từ năm 2014, làm giảm giá dầu thô, họ làm như vậy với mục tiêu công khai là để đảo ngược những thành tựu lớn gần đây của sản xuất phiến đá ở Hoa Kỳ.
Một luồng đề xuất pháp lý liên tục trong Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 2000 đã tìm cách làm cho OPEC phải tuân thủ các luật pháp chống độc quyền của Hoa Kỳ như một liên minh. Tuy nhiên, không có đề xuất nào được thông qua.
OPEC
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) được thành lập vào năm 1960 bởi các nước xuất khẩu phát triển nhằm kiểm soát sản lượng nội địa và cung cấp toàn cầu. Năm thành viên sáng lập gồm Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela. Sau đó, OPEC đã mở rộng thêm vài thành viên và hiện tại có 13 thành viên:
- Algeria
- Angola
- Congo
- Equatorial Guinea
- Gabon
- Iran
- Iraq
- Kuwait
- Libya
- Nigeria
- Saudi Arabia
- United Arab Emirates
- Venezuela
Mỗi thành viên trong tổ chức có một phiếu bầu và tất cả các quyết định về sản lượng dầu mỏ của OPEC đều cần sự đồng thuận nhất trí. (Các thành viên mới có thể được chấp nhận với sự đồng ý từ ba phần tư số thành viên, bao gồm tất cả các nước sáng lập.)
Trong thực tế, Ả Rập Saudi lịch sử đã chiếm vai trò quan trọng hơn trong việc ra quyết định của OPEC vì nó là nhà sản xuất và xuất khẩu dầu hàng đầu của tổ chức, với khả năng sản xuất dự phòng lớn hơn so với toàn bộ nhóm. Vào năm 2021, Saudi Arabia chiếm 34% sản lượng dầu thô của OPEC, nhiều hơn gấp đôi Iraq, nhà sản xuất lớn thứ hai trong tổ chức. Dầu thô của OPEC chiếm 28% sản lượng chất lỏng dầu mỏ toàn cầu vào tháng 1 năm 2022.
Tất cả các thành viên OPEC đều hưởng lợi từ việc giá cao do các hạn ngạch cung cấp được tổ chức áp dụng, nhưng mỗi thành viên cũng có động lực cung cấp dầu thô vượt quá hạn ngạch của mình để tối đa hóa doanh thu dầu mỏ. Quy mô sản xuất của Saudi Arabia so với các thành viên OPEC khác cũng tạo động lực bổ sung để cung cấp nhiều dầu thô hơn so với sản xuất chủ lực của OPEC cho phép. Do đó, các cáo buộc vi phạm hạn ngạch đã nổi lên suốt lịch sử tổ chức, thách thức các ý kiến của những người chỉ trích cho rằng đây là một cái cartel hiệu quả.
Cách hoạt động của OPEC
Theo hiến chương, mỗi quốc gia thành viên có một phiếu bầu và các thỏa thuận cung cấp dầu giữa các thành viên yêu cầu sự đồng thuận nhất trí. Trong thực tế, Saudi Arabia đóng vai trò chiếm ưu thế bởi tư cách là nhà sản xuất lớn nhất của OPEC và quốc gia có nhiều khả năng sản xuất chưa sử dụng nhất. Các quốc gia thành viên thường cung cấp nhiều dầu hơn so với hạn ngạch quy định.
Vào cuối năm 2016, OPEC đã đồng ý phối hợp cung cấp dầu thô với 10 quốc gia không thuộc OPEC dưới mái nhà OPEC+. Các thành viên không thuộc OPEC tham gia OPEC+ gồm có Nga, Kazakhstan, Azerbaijan, Malaysia, Mexico, Bahrain, Brunei, Oman, Sudan và Nam Sudan. Các thỏa thuận cung cấp của OPEC+ như của OPEC đều yêu cầu sự đồng thuận trong các thành viên.
Mặc dù sản xuất dầu thô của Nga cạnh tranh với Saudi Arabia, nhưng Nga có ít khả năng sản xuất dự phòng hơn nhiều. Sau khi Nga xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm 2022, Thái tử Mohammed bin Salman của Saudi Arabia nhấn mạnh cam kết của Saudi Arabia đối với OPEC+.
OPEC so với Hoa Kỳ—Tương lai
Mỗi khi giá xăng tăng, hàng triệu tài xế Hoa Kỳ đều chú ý. Không có sản phẩm tiêu dùng nào có giá cả được trưng bày nhiều như xăng hoặc được thảo luận thường xuyên như vậy. Từ những năm 1970, các chính trị gia Hoa Kỳ thường chỉ trích OPEC về việc tăng giá năng lượng.
Nhóm các nhà sản xuất quốc gia thường được miêu tả là một cái bọn kartel và tập trung ở Trung Đông, một khu vực lâu nay được xem là thù địch với lợi ích của Hoa Kỳ, OPEC luôn là một mục tiêu dễ dàng. Trong những năm gần đây, nhóm này đã cố gắng cải thiện hình ảnh của họ tại Mỹ, nhưng hiệu quả hạn chế.
Trong ngắn hạn, OPEC và các nhà sản xuất dầu phi kim đang cạnh tranh nhau về thị phần toàn cầu. Khác với OPEC, các công ty Hoa Kỳ phải tuân thủ các quy định chống độc quyền, ngăn chặn họ phối hợp kế hoạch cung cấp. Việc khoan dầu phi kim có chi phí sản xuất cao hơn so với các giếng dầu dọc truyền thống ở Saudi Arabia. Tài nguyên dầu phi kim cũng có đường cong suy giảm dốc hơn, nghĩa là sản xuất từ các giếng dầu phi kim giảm nhanh hơn so với các giếng truyền thống.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ dự kiến sản xuất dầu thô của Hoa Kỳ sẽ đạt đỉnh vào năm 2030-2035, trong khi sản lượng của OPEC dự kiến sẽ tiếp tục tăng đến năm 2050.
Dự kiến phần lớn sự tăng trưởng trong tiêu thụ năng lượng sẽ diễn ra tại các nước châu Á đang phát triển, nơi mà nhu cầu dầu lỏng dự kiến sẽ tăng 1.8% mỗi năm đến năm 2050, nhanh gấp ba lần so với Hoa Kỳ.
Khi OPEC xuất khẩu nhiều dầu thô đến châu Á trong khi sản xuất và tiêu thụ của Hoa Kỳ chậm lại theo thời gian, sự cạnh tranh lịch sử giữa Hoa Kỳ và OPEC có thể giảm bớt. Tuy nhiên, nó có thể bùng nổ lại dưới tác động của các rủi ro địa chính trị bao gồm biến đổi khí hậu và tương lai của mối quan hệ Mỹ-Ả-rập Xê-út đã suy yếu gần đây.