Một phần của loạt bài |
Manga và anime |
---|
Manga[hiện] |
Anime[hiện] |
Phân loại độc giả[hiện] |
Thể loại[hiện] |
Cá nhân[hiện] |
Cộng đồng người hâm mộ[hiện] |
Chung[hiện] |
Liên quan |
|
Phim hoạt hình gốc (オリジナル・ビデオ・アニメーション Orijinaru bideo animēshon), hay còn được gọi là OVA (オーブイエー / オーヴィーエー / オヴァ ōbuiē, ōvīē hay ova) (và đôi khi được gọi là OAV, là phim hoạt hình gốc theo người nói Tiếng Anh, dù nó bị nhầm lẫn với phim người lớn ('Original Adult Video'), là phim hoạt hình và loạt phim được làm đặc biệt để phát hành với định dạng home video. Thuật ngữ này bắt nguồn từ phim hoạt hình (anime) Nhật Bản. Hầu như các nhà sản xuất OVA phát hành chúng do phim không được chiếu trên truyền hình hoặc trên rạp hoặc nhằm mục đích khác ví dụ như phần đầu phim OVA là dùng để giới thiệu hoặc quảng cáo. Những phim OVA ban đầu có sẵn trên VHS, sau này mở rộng phổ biến trên đĩa lade và DVD. Bắt đầu từ mùa hè 2008 OAD (original animation DVD, DVD hoạt hình gốc) bắt đầu phát hành DVD chung với tài liệu sách.
Định dạng
Tương tự như anime được chiếu trên truyền hình, mỗi OVA được chia thành từng tập nhỏ. OVA (băng, đĩa lade, hoặc DVD) thường chỉ chứa duy nhất một tập. Độ dài mỗi phim OVA rất đa dạng: mỗi tập có thể chạy từ vài phút cho đến vài giờ hoặc nhiều hơn thế. Độ dài mỗi tập khá phổ biến là 30 phút nhưng không có độ dài chính xác tuyệt đối. Trong vài trường hợp, độ dài mỗi một tập trong một bộ phim OVA có thể có sự khác biệt lớn, ví dụ như trong phim GaoGaiGar FINAL, 7 tập đầu độ dài mỗi tập là 30 phút, còn những tập cuối độ dài kéo dài khoảng 50; OVA Key the Metal Idol gồm 15 tập riêng lẻ, độ dài chạy từ 20 phút đến gần 50 phút cho mỗi tập; tính đến năm 2012 OVA Hellsing đã phát hành 10 tập chạy từ 42 phút đến 56 phút. Một OVA có thể chạy bất cứ chỗ nào từ tập đơn (thường là với một bộ movie direct-to-video) tới nhiều tập phim xét về dộ dài. Phim OVA Legend of the Galactic Heroes gồm 110 tập chính và 52 tập gaiden có lẽ là OVA dài nhất từng có.
Có nhiều bộ phim hoạt hình nổi tiếng ban đầu được phát hành dưới dạng OVA và sau đó mở rộng thành các bộ phim hoặc series truyền hình. Ví dụ, Tenchi Muyo! ban đầu là OVA nhưng sau đó đã phát triển thành loạt phim truyền hình, ba movie và nhiều tác phẩm khác. Các nhà sản xuất thường phát hành OVA như là phần mở rộng của series, các câu chuyện phụ, hoặc để tạo thêm doanh thu để duy trì tồn tại như là phim hoặc series truyền hình, ví dụ như Love Hina Again và Wolf's Rain.
Phim OVA thường có doanh thu cao hơn so với phim truyền hình từng tập; điều này dẫn đến chất lượng hoạt hình thường cao hơn phim truyền hình, mặc dù đôi khi cũng ngang bằng nhau.
Phim OVA nổi tiếng về việc phát triển cốt truyện chi tiết và nhân vật, có thể đến từ sự sáng tạo tự do lớn hơn được cung cấp cho các tác giả và đạo diễn so với các định dạng khác. Điều này cũng cho phép các phiên bản hoạt hình chuyển thể từ manga phản ánh tài liệu gốc một cách trung thực hơn. Vì các tập phim và series OVA thường không có độ dài cố định, các đạo diễn OVA có thể sử dụng thời gian một cách linh hoạt để phát triển câu chuyện, mở rộng bối cảnh và nhân vật. Điều này khác với các tập phim truyền hình (phải có độ dài từ 22 đến 26 phút) và phim lẻ (hiếm khi kéo dài hơn 2 tiếng). Không có áp lực sản xuất 'nội dung phụ' để mở rộng câu chuyện ngắn thành series phim truyền hình đầy đủ như với các OVA. Các nhà sản xuất OVA thường tập trung vào khán giả đích thực hơn là đám đông của các series truyền hình và phim lẻ, hoặc có thể ít bị ràng buộc về giới hạn và kiểm duyệt nội dung (như bạo lực, khỏa thân hoặc ngôn từ mạnh) như các series truyền hình. Ví dụ, phim OVA Kissxsis thường chứa nhiều nội dung nhạy cảm hơn phiên bản truyền hình.
Nhiều sản phẩm OVA hướng đến các đối tượng khán giả nam say mê anime. Bandai Visual đã tuyên bố trong một cuộc họp báo năm 2004 (về các OVA mới nhắm tới phụ nữ) rằng khoảng 50% khách hàng mua DVD anime của họ trong quá khứ thuộc về nam giới từ 25 đến 40 tuổi, với chỉ 13% là nữ giới, kể cả khi tính cả các độ tuổi khác nhau. Số liệu này bao gồm cả DVD anime của Bandai Visual, không chỉ là OVA, nhưng chúng phản ánh xu hướng chung vào thời điểm đó. Nikkei Business Publications cũng đã công bố trong cuộc họp báo rằng người mua DVD anime chủ yếu là người lớn từ 25 đến 40 tuổi. Rất ít phim OVA hướng đến khán giả nữ, nhưng Earthian đã là một ví dụ cho những ngoại lệ này.
Một số OVA dựa trên series truyền hình (đặc biệt là những bộ dựa trên manga) có thể cung cấp phần kết cho câu chuyện - những phần mà không xuất hiện trong series gốc. Có thể kể đến OVA Rurouni Kenshin, đã minh họa nhiều khía cạnh của OVA; chúng dựa trên một số chương của manga của Nobuhiro Watsuki không được chuyển thể sang bản truyền hình, có chất lượng hoạt họa cao hơn, bạo lực hơn và được thể hiện theo cách tối tăm và thực tế hơn nhiều so với các tập truyền hình hoặc manga.
Thực tại tối tăm đã hiện hữu trong bộ manga nổi tiếng Saint Seiya của Kurumada Masami. Dự án anime đã chuyển thể hai trong ba tập của manga của Kurumada Masami, nhưng hồi thứ ba lại không được hoàn thành. Sau khi Kurumada hoàn thành bộ manga vào năm 1991, tập cuối cùng cũng đã được chuyển thể thành anime từ năm 2003 và kết thúc vào năm 2008, hoàn toàn chuyển thể manga của Kurumada Masami thành anime.
Đa số các OVA thường có 4 hoặc 8 tập, và một số chỉ có một tập duy nhất. Chúng thường có cốt truyện phức tạp và liên tục, tốt nhất là khi xem theo thứ tự. Điều này khác biệt so với các sê-ri truyền hình, thường có nhiều 'câu chuyện nhỏ' có liên kết nhau hơn là một cốt truyện liền mạch. Rất nhiều OVA có thể coi như là những 'bộ phim dài', được phát hành từng phần. Lịch trình phát hành cũng thay đổi: một số sê-ri thường chỉ phát hành 1-2 tập mỗi năm. Một số OVA với lịch trình phát hành dài không hoàn thành do thiếu doanh thu và sự hỗ trợ từ người hâm mộ.
Cũng có nhiều OVA chỉ có một tập. Thông thường, những OVA như vậy cung cấp một câu chuyện phụ (ví dụ như OVA của Detective Conan). Trong giai đoạn ban đầu của lịch sử OVA (những năm 1980), có rất nhiều OVA chỉ có một tập xuất hiện. Rất nhiều bộ manga nổi tiếng không đủ điều kiện để trở thành sê-ri truyền hình, do đó OVA dạng one-shot được phát triển (nếu không thì sẽ quá ngắn). Khi những OVA này chứng minh được tính phổ biến, chúng có thể dẫn dắt đến sê-ri anime mới.
Lịch sử phim OVA bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1980. Khi băng VCR trở thành phương tiện chính thức trong các gia đình Nhật Bản, ngành công nghiệp anime Nhật Bản phát triển một cách rộng lớn. Nhu cầu về anime tăng cao, đến mức mà người tiêu dùng sẵn sàng đến cửa hàng mua phim hoạt hình mới ngay lập tức. Trong khi ở Hoa Kỳ, thuật ngữ 'direct-to-video' thường mang ý nghĩa tiêu cực, tại Nhật Bản, direct-to-video lại là điều cần thiết. Rất nhiều sê-ri phổ biến và có sức ảnh hưởng như Bubblegum Crisis (1987-1991) và Tenchi Muyo! (1992-2005) đã được phát hành trực tiếp dưới dạng OVA.
OVA có nguồn gốc từ đầu những năm 1980. Khi băng VCR trở thành phổ biến trong các gia đình Nhật Bản, nền công nghiệp anime Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu về anime tăng cao, người tiêu dùng sẵn sàng đến cửa hàng mua phim hoạt hình mới ngay lập tức. Trong khi ở Hoa Kỳ, thuật ngữ 'direct-to-video' thường mang ý nghĩa tiêu cực, tại Nhật Bản, direct-to-video lại là điều cần thiết. Rất nhiều sê-ri phổ biến như Bubblegum Crisis (1987-1991) và Tenchi Muyo! (1992-2005) đã được phát hành trực tiếp dưới dạng OVA.
Nỗ lực sớm nhất để ra mắt OVA được biết đến là The Green Cat của Osamu Tezuka (một phần của sê-ri Lion Books) vào năm 1983, mặc dù nó không được xem là OVA đầu tiên: không có bằng chứng cho thấy băng VHS có sẵn và sê-ri vẫn chưa được hoàn thành. Vì vậy, OVA chính thức đầu tiên được xem là Dallos, ra mắt vào năm 1983, đạo diễn bởi Mamoru Oshii và được phát hành bởi Bandai. Các bộ OVA nổi tiếng khác trong giai đoạn đầu đã ra mắt trong thời gian ngắn sau đó bao gồm Fight! Iczer One và Megazone 23. Các công ty khác nhanh chóng lấy ý tưởng này và vào nửa sau thập niên 1980, thị trường đã chứng kiến sự bao trùm của OVA. Trong giai đoạn này, hầu hết các bộ OVA mới ra mắt độc lập.
Trong suốt thời kỳ bong bóng kinh tế Nhật Bản vào những năm 1980, các công ty sản xuất luôn sẵn sàng để sản xuất các bộ OVA một hoặc hai phần cùng lúc. Họ trả tiền cho các studio anime để sáng tạo ra các OVA được phát hành tại các cửa hàng cho thuê. Về mặt doanh thu, để sản xuất một bộ OVA dài hơn được coi là khả thi, các mạng lưới TV trả tiền cho hầu hết các chi phí sản xuất.
Khi nền kinh tế Nhật Bản suy thoái vào những năm 1990, số lượng các bộ OVA mới bắt đầu giảm dần. Mặc dù việc sản xuất các bộ OVA vẫn tiếp tục nhưng ở mức độ thấp hơn. Nhiều sê-ri anime truyền hình giảm số tập xuống còn 13 tập thay vì 26 tập mỗi mùa như truyền thống. Các bộ phim mới thường được thiết kế để phát hành trên TV nếu chúng có độ dài phù hợp. Ngoài ra, sự phổ biến của mạng lưới TV cáp và vệ tinh tăng cao (với các quy tắc kiểm duyệt thường ít nghiêm ngặt hơn) đã cho phép công chúng có thể xem các bộ phim trực tiếp từ rất nhiều tập phim mới - điều này là không thể trong quá khứ. Do đó, nhiều sê-ri truyền hình chứa nội dung bạo lực, phản cảm và fan service trở thành những bộ phim phổ biến hàng ngày, trong khi trước đó chúng thường là các bộ OVA. Trong giai đoạn này, hầu hết các nội dung OVA bị giới hạn, tập trung vào các bộ phim đã tồn tại và đã ra mắt.
Tuy nhiên, từ năm 2000 trở đi, một xu hướng mới của OVA đã hình thành. Các nhà sản xuất phát hành nhiều sê-ri truyền hình nhưng không phát sóng tất cả các tập trên TV - thay vào đó, một số tập được phát hành trên DVD. Ví dụ như tập 25 của Love Hina chỉ có sẵn trên DVD, trong khi nhiều tập của Oh My Goddess cũng chỉ được phát hành trên DVD. Ngoài ra, tập cuối cùng của Excel Saga cũng được coi là một tập OVA, chủ yếu do vấn đề nội dung không thể phát sóng trên TV. Trong những trường hợp như vậy, toàn bộ sê-ri phim không được gọi là OVA, mặc dù một số tập phim cụ thể lại là OVA. Xu hướng này ngày càng trở nên phổ biến; ngoài ra, nhiều sê-ri OVA được phát hành trước các tập trên DVD với chất lượng cao hơn và không qua chỉnh sửa, giới hạn ranh giới giữa TV và phim hoạt hình.
Tổng quan
- Cổng thông tin Hoạt hình
- Cổng thông tin Điện ảnh
- Direct-to-video
- Original net animation
- V-Cinema
Chú thích
Ngành công nghiệp hoạt hình tại Nhật Bản |
---|