Đề bài: Phản ánh về Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
2 bài văn mẫu về Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Thủ thuật Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ để đạt điểm cao
1. Phác họa về Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu 1:
Dựa vào văn bản thơ, ta thấy sự nổi bật nhất là hình ảnh của Huế tươi đẹp và thơ mộng. Bài thơ có 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như chú trọng nói về một khía cạnh đặc sắc của Huế.
Tại sao bạn không trở về thăm làng Vĩ?
Câu hỏi khơi gợi ký ức về thôn Vĩ, mở rộng về xứ Huế, trong không khí bình yên và lãng mạn của Hàn Mạc Tử. Bình minh tại thôn Vĩ: Ánh nắng mới bắt đầu, chiếu sáng những hàng cây cau. Vĩ Dạ có những cây cau thẳng tắp vươn cao trên mái nhà và những tán cây. Những dải cau lấp loáng như bóng sáng của đêm, hút ánh sáng của buổi sớm.
Vườn xanh tốt, ngọc ngà nhưng câu thơ không có gì đặc sắc nổi bật về hình ảnh và từ ngữ. Tuy nhiên, mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, và chung ở Huế, được gọi là những ngôi nhà vườn. Vườn bao quanh nhà, gắn liền với ngôi nhà xinh xắn thường là nhà trệt, tạo nên một cấu trúc thẩm mỹ đồng đều. Xuân Diệu gọi mỗi kiến trúc ấy như một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế, vườn được chăm sóc kỹ lưỡng: cây cảnh và cây ăn quả xanh tốt, sạch sẽ. Dường như chúng được cắt tỉa, lau chùi, biến thành những cành vàng lá ngọc. Sự so sánh tăng lên qua cách điệu hóa. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên mạnh mẽ ở câu thứ tư: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Dù được gọi là cách điệu hóa, nhưng không nên hiểu theo nghĩa tả thực, mặc dù nó có xuất phát từ thực tế: sau những hàng rào xinh xắn, khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, êm đềm, thân thiện.
Bài văn Phân tích về Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Trong khổ thơ thứ hai, dòng ký ức vẫn lan tỏa. Nhớ Huế là nhớ ngay đến dòng sông Hương. Dòng sông Hương, gió và mây. Chiếc thuyền nằm dưới ánh trăng gần bến vắng... Bốn câu thơ như là bản nhạc nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Sự tinh tế ở đây miêu tả làn gió thổi nhẹ nhàng, không đủ để mây bay, không đủ để nước gợn, nhưng gió vẫn trỗi dậy nhẹ nhàng làm hoa bắp lay. Chắc chắn, đây là cảnh sông Hương trôi qua Vĩ Dạ, êm đềm hướng về cửa Thuận. Đúng là giai điệu của Huế đó.
Hai câu tiếp theo toát lên vẻ trầm bổng của ánh trăng. Cảnh trong ký ức như là một chuyến du hành theo logic của ký ức. Cảnh sông Hương dưới ánh trăng thật tuyệt vời. Hàn Mạc Tử đam mê trăng, và không gì huyền bí bằng ánh trăng. Trăng trở thành một nhân vật huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền bí tràn ngập vũ trụ, tạo nên một không khí mộng mơ, như trong giấc mơ.
'Thuyền nào đậu bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Chỉ khi trong giấc mơ, sông mới trở thành sông trăng và chiếc thuyền mới mang trăng về như một du khách trên dòng sông Hương... Hình ảnh thuyền vận chuyển trăng không mới lạ, nhưng sông trăng có lẽ là của riêng Hàn Mạc Tử. Khổ thơ thứ ba kể về người xưa tại thôn Vĩ. Ký ức không thể không gắn liền với những con người. Khung cảnh Huế hài hòa với những cô gái Huế, không gì hợp lý hơn cho bài thơ về Huế nếu không phải là hình ảnh những cô gái này (vẻ đẹp và thơ của Nam Trân, Dửng dưng của Tố Hữu...).
Những khổ thơ mở đầu bằng một lời thốt lên trước hình ảnh mơ hồ nhưng thực tế:
Mơ du khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Mơ hồ với du khách đường xa và nhìn không ra nhưng thực tế với áo em trắng quá. Hình ảnh gần gũi nhưng cũng xa xôi. Sự xa xôi không chỉ là khoảng cách về không gian mà còn là khoảng cách thời gian, và mối tình cũng xa xôi vì từ lâu đã ràng buộc, đã hứa hẹn gì đâu. Đó là lý do mà mối tình có vẻ đậm đà. Anh là ai hay là em? Có thể là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mạc Tử và cô gái mà nhà thơ từng yêu thầm) là sương khói của thời gian, của không gian, của mối tình chưa kịp ước hẹn, không ai biết liệu có đậm đà hay không? Lời thơ rơi vào bâng khuâng mơ mộng và gợi lên một nỗi buồn sâu sắc.
Không chỉ là hình ảnh một mối tình cá nhân giữa nhà thơ và người yêu, khổ thơ còn là bức tranh về Huế, nơi mà những cô gái Huế hiện lên trong sương mơ. Sự e lệ và kín đáo của họ khiến họ trở nên xa xôi, huyền bí. Liệu tình yêu của họ có chân thật không? Điều này không phải là sự đánh giá hay chỉ trích. Tình yêu thường đặt ra những nghi vấn khiến con người phải suy ngẫm.
Tình yêu trong thơ luôn là cái riêng biệt. Nhưng ý nghĩa thực sự chỉ xuất hiện khi nói về tình yêu của nhiều người. Sự biện chứng trong nghệ thuật đều như vậy. Trong khổ thơ này, điều quan trọng nhất là sự chấp nhận từ độc giả, đặc biệt là những người ở Huế.
""""---KẾT THÚC ĐOẠN 1""""---
Sau khi chiêm ngưỡng Hình ảnh của thiên nhiên và con người Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, bạn có thể tham khảo thêm: Phân tích chi tiết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích bức tranh về quê hương và tình yêu đời của Hàn Mặc Tử trong Đây thôn Vĩ Dạ, Bình luận về khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để củng cố kiến thức của bạn.
2. Phân tích vẻ đẹp tự nhiên và tâm hồn dân dụ xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, biến thể 2:
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ bề ngoài lưu giữ sự cổ điển. Dù thể thơ, chất thơ và cấu trúc thoạt nhìn có vẻ quen thuộc, nhưng khi đi sâu vào, ta nhận ra sự độc đáo nằm trong chiều sâu và mạch ngầm của nó. Cấu trúc thất ngôn, với những yếu tố quen thuộc như nắng - hàng cau, lá trúc - mặt chữ điền, gió - mây, nước - hoa, thuyền - bến, sông - trăng... được sáng tạo theo cách độc đáo, phá vỡ những giới hạn truyền thống.
Khái niệm về tình quê và tình yêu trung thành, thường xuất hiện trong các bài phê bình cổ, nay đã trở thành sự hiểu lầm biến tấu tâm hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử thành một loại hình thơ chói lọi. Sự phá vỡ trong kỹ thuật sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử thể hiện ở cấu trúc độc đáo. Mạch thơ không tuân theo sự logic nhất quán tự nhiên của cảm xúc, mà thay vào đó là sự thay đổi bất ngờ giữa ba cảnh thơ trong ba khổ thơ, chẳng có sự kết nối rõ ràng. Điều này là minh chứng cho những biến đổi không ngờ từ thế giới tiềm ẩn, đột ngột và mơ hồ. Cảnh và nhân vật trong bài thơ chỉ là một phần của kỷ niệm về quá khứ, phần lớn còn lại là những ảo giác siêu hình, bóng dáng nằm đâu đó trong sương khói của tâm linh.
Cảnh thơ đầu tiên hiện ra rõ nét, với vẻ đẹp cổ điển. Ánh sáng mặt trời và hàng cau tạo nên một hình ảnh tỉnh lẻo: nắng bức hàng cau. Bầu trời và đất đều hòa quyện, vườn thôn Vĩ như cô gái mới bừng tỉnh, tươi mới, xanh ngát như viên ngọc chấp nhận từng tia sáng lung linh. Sự kết hợp giữa lá trúc và mặt chữ điền là một biểu tượng: vừa lên phong cách quý phái, vừa giữ lại nét dân dụ đơn giản, tạo nên bản chất văn hóa của nhân dân xứ Huế. Sự thuần khiết của thiên nhiên và tình thần trong cảnh thơ là những dư âm của ký ức về một thời thanh xuân, với mối tình đầu ngọt ngào.
Hướng dẫn tận hưởng bài phân tích, cảm nhận về vẻ đẹp tự nhiên và con người xứ Huế qua Đây thôn Vĩ Dạ
Cảnh thơ thứ hai trở nên mơ hồ, chìm sâu vào thế giới ảo, những hình ảnh thơ mộng bứt phá khỏi ranh giới cổ điển. Bốn dòng thơ mở ra với những nghịch lý đối với tự nhiên. Gió không chỉ thổi bay mây mà còn theo đuổi hình thức của gió, mây mải mê theo đường mây, chia cắt không gian thành hai phần. Nước chảy hoa trôi trở thành dòng nước buồn bã với những bông hoa mảnh mai, hồn nước vẫn chảy đi nhưng hồn hoa trôi dạt không hướng. Câu ca dao như một giọt sầu: thuyền về có nhớ bến không... chỉ là tiếng vọng mơ hồ, xa cách: con thuyền đang chở trăng về bến nhưng lạc lõng ở phương trời nào đó. Cuộc gặp gỡ của tình đầu đang biến thành sự xa lạ, khoảng cách không lường trước. Ký ức của một thời chỉ là bóng tối của tương tư, nó đang tan vỡ từng mảnh vì sự thực tế không như ý. Cảnh thơ thứ ba tràn ngập màu trắng, màu trắng của một giấc mơ sau những biến động không thường. Ai đó xuất hiện trên con đường đầy sương khói, vừa là người qua đường, vừa là em. Thông điệp từ khách xa xôi khiến con đường trở nên dài và mở ra không gian vô tận. Người chỉ còn lại là hình bóng. Sương mờ, áo trắng, hai mảnh trắng hòa quyện vào nhau. Hình ảnh của ký ức đang tan rã cùng với sương khói. Màu trắng của ảo giác không hữu hình này đã đưa thơ Hàn Mặc Tử đến ngưỡng cửa siêu thực: trắng như tinh khôi, trắng khiến ta rùng mình...
"""""---KẾT THÚC"""""--
Ngoài bài Đây thôn Vĩ Dạ, Chí Phèo cũng là một tác phẩm quan trọng mà các em cần tập trung trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Hãy tham khảo Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên để thấy rõ bi kịch của người nông dân trong xã hội phong kiến xưa.