Đề bài
Phản ánh về đoạn thơ dưới đây trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Chúng ta quay về chính mình có nhớ chúng ta
....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Lời giải chi tiết
Ân tình và sự chung thủy - đó là một nét đẹp trong hàng loạt nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Hai lần 'ta về' láy lại ở đầu câu - cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên là hỏi người, câu dưới là giãi bày lòng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược với miền xuôi đã trở thành một cuộc giã bạn đôi lứa (ta - mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người hoà quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp bức tranh Việt Bắc, trước tiên là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh đó được diễn tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hoà, có âm thanh vui tươi, đầm ấm. Cảnh và người hoà quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.
Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh tế gợi cảm, Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới 'rừng xanh hoa chuối đỏ tươi'. Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đỏ), bức tranh mùa đông của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữa. Xuân sang sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng: 'ngày xuân mở nở trắng rừng'. Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước:
Ôi bình minh xuân ấy, mùa Xuân năm 1941
Hoa mơ khoe sắc trắng trên bờ rừng biên giới
Bác trở về... Im lặng. Tiếng chim hót vang lên
Bờ lau xanh thắm, vui mừng ngơ ngẩn...
(Theo dấu chân Bác, của Tố Hữu)
Bốn cặp lục bát trong bài thơ của Tố Hữu mô tả cảnh hè và mùa thu. Trái với màu xanh chủ đạo của cảnh động, có sắc đỏ tươi của hoa, của cảnh xuân là màu trắng của hoa mơ, thì màu vàng rực rỡ của rừng phách đánh dấu mùa hè: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ xuất sắc trong bài thơ Việt Bắc. Câu thơ này chỉ sử dụng sáu chữ nhưng diễn đạt sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Ve kêu không ngừng trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới ánh nắng hè. Cuối cùng, cảnh thu xuất hiện với sắc trắng dịu dàng của ánh trăng, màu của ước mơ về cuộc sống bình yên giữa những ngày khó khăn. Mỗi cảnh đều tuyệt đẹp, mỗi mùa đều đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ, lôi cuốn.
Bức tranh bốn mùa còn làm nổi bật vẻ đẹp tinh tế của con người Việt Bắc. Cảnh làm nền cho con người và con người kết hợp với cảnh, hòa mình vào nhau và làm cho nhau rực rỡ hơn. Có vẻ như những cảnh đó cần có những con người, và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người dễ thương, giản dị: hình ảnh người leo núi với lưỡi dao lung linh dưới ánh nắng, bàn tay 'chuốt từng sợi giang' của người đan nón và 'cô em gái hái măng một mình' giữa tiếng ve và màu vàng của rừng phách. Tiếng hát ân tình cũng làm cho cảnh thu êm đềm và ánh trăng trải bày sự hòa bình.
Để hiểu sâu sắc về Việt Bắc, để yêu quý nơi này và nhớ mãi, cần có sự hiểu biết đúng đắn và cái nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với quan điểm sai lệch trước đây về vùng núi và người dân nơi đây là nơi 'ma thiêng nước độc' với những con người thô bạo, kém văn minh,...) Tố Hữu đã có một quan điểm đầy thông cảm, yêu thương và tôn trọng về quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này phản ánh sự gắn bó chân thành, sự nhớ thương sâu sắc của nhà thơ với cảnh và con người Việt Bắc.
Tình cảm quyến luyến đó lan tỏa khắp đoạn thơ, và điệu lục bát dịu dàng trầm bổng khiến cho cảm xúc trở nên nồng nàn, thấm đẫm. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là sự đối đáp, có ta và mình, có người đi kẻ ở, nhưng thực chất đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.
Kết thúc đoạn thơ là tiếng hát ân tình, trung thành của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của bà con Việt Bắc. Tiếng hát ấy vọng về trong lòng người đi, luôn gợi nhớ về những ngày tháng đầy ý nghĩa. Tiếng hát ấy là cây cầu nối giữa trái tim với trái tim, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.