Đề bài
Phản ánh về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
Lời giải chi tiết
Theo như ta đã biết, Lưu Quang Vũ là một tài năng xuất sắc, những tác phẩm của ông mang lại cho thế hệ sau những bài học về cuộc sống, về con người, về mối quan hệ giữa con người với nhau. Trong đó, Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm kịch nổi tiếng. Chính cái tên của vở kịch đã tạo nên một sức hút không thể chối từ đối với độc giả. Ngoài ra, nó còn khơi gợi những ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong. Một cái tên không chỉ khiến cho người đọc tò mò mà còn đưa họ suy ngẫm. Hồn Trương Ba và da hàng thịt thực chất là những biểu tượng sâu sắc. Hồn và thể xác luôn liên kết với nhau, hoà hợp với nhau nhưng khi hồn rời xa thì xác điều gì sẽ xảy ra? Đó là một trong những vấn đề chính mà Lưu Quang Vũ đã khéo léo giải quyết trong vở kịch của mình. Có thể thấy rằng da hàng thịt là biểu tượng cho hình thức bên ngoài của con người, trong khi hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Sự đối lập giữa bề ngoài và bản chất trong mỗi con người. Qua vở kịch, nó cũng nhấn mạnh một ý nghĩa sâu xa, hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho cái đẹp thanh cao, trong khi da hàng thịt là biểu tượng cho cái xấu xa, cái bình dân và hèn mọn trong mỗi con người. Một con người không thể sống dưới vỏ bọc của một người khác, và một tâm hồn thanh cao không thể sống trong một thân xác tục tẫn. Sống như thế sẽ đau khổ hơn cả cái chết, vì thế còn hơn chết để thỏa mãn.
Vở kịch không chỉ mang ý nghĩa triết lý về cuộc sống con người, về hạnh phúc mà còn góp phần phê phán một số biểu hiện tích cực trong lối sống hiện đại.
Điều quan trọng đầu tiên là con người hiện đang đối mặt với nguy cơ bị cuốn theo ham muốn vật chất, chỉ mê mải tận hưởng đến mức trở nên tục tẫn, phàm phu. Điều này được thể hiện qua mối quan hệ giữa linh hồn và thân xác, giữa hồn Trương Ba và gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là “cái chết” của hồn Trương Ba.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và thân xác hàng thịt là một cuộc trò chuyện sống động, mang đầy ý nghĩa triết lý, gồm có 25 lượt lời. Thân xác hàng thịt chỉ biết nói “ông ba”, “ông ba”, trong khi hồn Trương Ba, mặc dù bị hạ thấp bởi thân xác hàng thịt, vẫn có đủ tài để đối phó: thân xác hàng thịt cho biết rằng “dù tôi có thể khích lệ mạnh mẽ, thậm chí át cả linh hồn cao quý của ông”, ông cũng không nhớ “Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng bỏng, cổ nghẹn lại…”; hoặc “Ông không cảm thấy xúc động chút nào ư? Hà hà, món tiết canh, đầu lợn, chân heo, và đủ thứ thú vị khác liệu không khiến hồn ông xao xuyến?”. Ý nghĩa ở đây là hồn Trương Ba đã mất đi danh dự, sự cao quý khi phải sống trong một thân xác không phải là của mình. Khi hồn Trương Ba tự tin cho rằng mình có một cuộc sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, thì thế nhưng thân xác hàng thịt lại châm biếm: “Cười nhạo thật! Khi ông phải tồn tại nhờ vào tôi, tuân theo những yêu cầu của tôi, và vẫn tự cho mình là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”.
Có thể thấy qua những lời nói của thân xác hàng thịt thể hiện sự khinh thường đối với hồn Trương Ba, tự phụ và khẳng định vị thế của mình.
Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và da Hàng thịt, diễn ra một cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn trong một con người. Thân xác và linh hồn có mối liên kết chặt chẽ, cùng tồn tại và phát triển. Khi linh hồn rời đi, thân xác cũng trở về tro bụi. Linh hồn chi phối những ham muốn, dục vọng của thân xác, từ đó hoàn thiện nhân cách và làm cho tâm hồn sáng trong.
Mối quan hệ này cũng được thể hiện qua lời nói của thân xác hàng thịt: “Tôi là chứa đựng cho linh hồn” làm tăng thêm ý nghĩa ẩn dụ trong cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba và thân xác hàng thịt.
Chúng ta có thể thấy rằng khi sống dựa vào thân xác hàng thịt, hồn Trương Ba trở nên phế phụ hơn nhiều: tát con trai tới máu rơi. Hồn Trương Ba đã thay đổi hoàn toàn, không còn như xưa, làm vườn cũng thô tục: “làm vỡ chồi non” của cây cam, “đạp nát cây sâm quý mới trồng”, “làm vỡ cả cánh cửa, rách giấy, hỏng mất cả cánh diều đẹp” của cậu Tị. Sự khác biệt giữa tâm hồn và thân xác đã khiến hồn Trương Ba sống trong cảnh bi kịch, trải qua nhiều đau khổ: vợ muốn bỏ đi để “ông được tự do… với cô vợ người hàng thịt”; con gái và cháu nội khinh bỉ, lời lẽ cay đắng: “Ông xấu quá, ác quá! Đi ra đi! Ông tàn ác, đi ra đi!”. Chị con dâu, người thấu hiểu và thương hồn Trương Ba hơn cả, trước cảnh “tan hoang” của gia đình, rất lo sợ, đau đớn “thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát từng ngày, mọi thứ như đều bị biến dạng, mờ mịt dần đến nỗi có khi con cũng không nhận ra thầy nữa…'.
Hồn Trương Ba trở nên lạnh lùng, “mặt lạnh như đá”. Ngồi một mình, như tỉnh giấc, như sốc: “Mày đã chiến thắng rồi đấy, cái thân xác không thuộc về tao, mày đã tìm ra cách để đè bẹp tao”. Không thể sống dựa vào người khác mãi, không thể bị phụ thuộc vào thân xác hàng thịt và đánh mất bản thân, hồn Trương Ba tỉnh ngộ, khích lệ bản thân: “Nhưng liệu tao có thể chấp nhận thất bại trước mày, quỳ gối trước mày và đánh mất bản thân mình? … Có thể không có con đường nào khác sao? Không cần sống trong cuộc sống mà mày mang lại! Không cần!”. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba có ý nghĩa sâu sắc. Linh hồn của Trương Ba đã tìm ra hướng đi cho chính mình.
Sau đó, cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đưa xung đột kịch lên tới đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba “đứng dậy, chắc chắn, đi đến gần cột nhà, lấy một nén hương, châm lửa. và thắp lên”. Gặp lại người bạn cùng chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba kể về những khó khăn: “Ông Đế Thích ơi, tôi không thể tiếp tục sống dựa vào thân xác không phải của tôi nữa, không thể!… Không thể ở trong một trạng thái này, không thể! Tôi muốn trở lại chính mình”.
Mặc dù đã được Đế Thích tiết lộ sự thật về cái số phận, cái định mệnh là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt không ai được tồn tại “toàn vẹn”, mà “phải tuân theo quy tắc'… Thêm vào đó, ông đã bị Nam Tào “xóa tên khỏi danh sách”, thân thể của ông “đã tan rã trong bùn đất” rồi. Sau khi giải thích rằng Hồn Trương Ba không muốn sống trong thân xác của một người khác nữa, cũng không muốn “hòa nhập vào cuộc sống của cu Tị” vì sẽ gây ra nhiều rắc rối, trớ trêu hơn nữa là sẽ “cô lập và mất phương hướng”, “khinh bỉ như kẻ tham lam”. Thật là không công bằng, vô cùng không công bằng, bởi vì “một kẻ đã được quyết định phải chết từ lâu mà vẫn còn sống, vẫn khỏe mạnh, vẫn tận hưởng mọi điều tốt lành của cuộc sống!'. Như chúng ta đã biết từ trước đến nay, những kẻ tham sinh tự tử, những kẻ tham quyền vị đều bị người đồng loại khinh bỉ và chế nhạo!
Mặc dù có những lúc Hồn Trương Ba dường như suy yếu, nhưng hiện tại ông vẫn tỏ ra tỉnh táo, quan trọng. Ông muốn Đế Thích phép cho linh hồn hàng thịt của mình được “tái sinh' trong thân xác của anh ta; chỉ mong tiên cờ giúp cu Tị được sống lại cùng mẹ, được chơi với bạn bè: “Ông Đế Thích, vì tương lai ông ạ, vì tương lai của trẻ con. Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng'… Ý định đó rất nhân đạo và cao cả. Hồn Trương Ba càng nói lên khao khát cầu xin: “Tôi đã qua cõi đời rồi, xin hãy để tôi yên nghỉ!… Điều quan trọng cần làm ngay bây giờ là làm cho cu Tị sống lại. Còn tôi, hãy để tôi yên bình nghỉ ngơi”. Hồn Trương Ba đã từ chối thậm tệ cả món hương mà Đế Thích tặng, quyết tâm muốn nhảy xuống biển tự sát hoặc tự cắt cổ để chết, để tinh thần được “trở về bình yên, trong sạch như xưa…”. Ý tưởng của Hồn Trương Ba thật là cao cả.
Vở kịch cũng nói lên một số vấn đề đáng quan ngại, đó là tình trạng con người sống giả mạo, không dám, cũng không được sống với bản chất thực sự của mình, đẩy con người đến tình trạng bị coi thường và bị “tham ăn và tham quyền”.
Đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt đem lại cho độc giả, khán giả nhiều suy tư. Hồn Trương Ba không đi theo Đế Thích lên thiên đàng để chơi cờ, mà thay vào đó, ông biến thành màu xanh của vườn, hương vị thơm ngon của trái na, vẫn gắn bó với gia đình, gần gũi với người thân, trong ánh lửa, trong ao hồ, trong cội trầu, con dao… của vợ con yêu quý. Như vậy, hồn Trương Ba thanh cao vẫn tồn tại mãi mãi trong cuộc sống. Cái kết tươi đẹp ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng trong tác phẩm.