Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng rơi vào tay mụ Tú Bà bán thịt người. Thấu hiểu tình cảnh nhục nhã, éo le của mình, Kiều đã quyết định tự vẫn. Lo sợ mất lợi nhuận lớn, Tú Bà hoảng hốt cứu Kiều và tạm cho nàng ở lầu Ngưng Bích, hứa sẽ tìm chồng tốt cho nàng. Trong những ngày ấy, Kiều sống trong nỗi buồn thương đau cùng nỗi cô đơn. Với bút pháp tài tình, Nguyễn Du đã vẽ lên cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích như một bức tranh tâm tình đầy xúc động:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Đoạn trích trên diễn đạt tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích: buồn bã, nhớ về người yêu, cha mẹ, đau lòng vì thân phận bi đắng của mình. Đoạn thơ là biểu hiện cho quan điểm: Người buồn không thể tìm được vui vẻ trong thế gian, theo quan điểm của thi nhân Nguyễn Du. Cảnh thiên nhiên ở đây được phủ một tấm bức màn u tối bởi ánh mắt u buồn của Kiều, đau khổ. Nỗi buồn từ trái tim con người lan tỏa ra cảnh vật, và cảnh vật cô đơn, hoang vắng càng khuấy động nỗi buồn trong trái tim cô gái bất hạnh là Kiều.
Sống trong tình thương thương mại của gia đình, trong sự ấm áp và hạnh phúc của tình yêu đầu tiên, Kiều đột nhiên bị kéo vào vòng xoáy của số phận. Nàng bị lừa dối, bị hành hạ tàn nhẫn, bị xúc phạm đến phẩm giá. Bao biến cố đổ xô đến với nàng trong thời gian ngắn ngủi. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng đều bị những thế lực đen tối trói buộc, đè nén không tha. Giờ đây, nàng một mình trước lầu Ngưng Bích, giữa xứ lạ quê người, hoàn toàn cô đơn, không ai để chia sẻ nỗi đau thương. Do đó, nỗi đau trong lòng càng trở nên lớn lao, sâu sắc hơn. Thuý Kiều chỉ biết chia sẻ nỗi lòng với cảnh vật xung quanh.
Sáu dòng đầu mô tả cảnh trước lầu Ngưng Bích. Cảnh được tác giả miêu tả bằng những nét vẽ chấm phá: vẻ non xa, trăng gần, bốn phía đều mênh mông, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp, nhưng buồn thảm, mênh mông vắng vẻ, lạnh lẽo. Nguyễn Du đã sử dụng cảnh vật để thể hiện tâm trạng của Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, trăng gần ở chung.”
Cha mẹ, anh em, người yêu, ... tất cả đã xa xôi, cách biệt với Kiều. Sống giữa đám người dã tâm như Tú Bà. Mã Giám Sinh, Kiều chẳng khác gì một chú cừu non giữa đàn sói. Có ai hiểu nổi lòng nàng trong hoàn cảnh này? Nhìn một dáng núi xa, nhìn một vầng trăng gần, nàng cảm thấy như là bạn thân. Nhưng những người bạn thân này không thể an ủi, chia sẻ được nỗi đau đang chứa đựng trong lòng nàng? Vì thế, nỗi đau không thể nào dứt điểm.
Nhìn ra bốn phương, tám hướng, không góc nào mang lại chút niềm vui:
'Bốn phía đều mênh mông xa trông,
Cát vàng, cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Không một bóng người, chỉ có không gian mênh mông, hoang vắng và buồn tẻ. Kiều định mệnh như hạt cát, hạt bụi nhỏ bé ấy. Trong sự tương phản giữa con người và cảnh vật, nỗi đau của Kiều dường như cũng bao trùm cả cảnh vật xung quanh nàng. Càng thấu hiểu về thân phận của mình, cảm xúc của nàng càng trở nên tan nát:
'Bèn bàng mây sớm, đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như làm tan nát tấm lòng.”
Cảnh buồn gợi nhớ. Kiều im lặng, lặng lẽ lau nước mắt khi nhớ lại những kỷ niệm tươi đẹp đã trở thành quá khứ.
Nàng nhớ về người yêu và mối tình đầu tươi đẹp:
“Tưởng như người dưới ánh trăng, chén đồng,
Tin rằng sương luống những ngày đợi mong sẽ có ngày tương phùng.”
Hình ảnh hai người uống chén rượu, hứa hẹn sẽ mãi mãi gắn bó, vẫn còn sáng rạng trong kí ức của nàng. Nàng nhớ về Kim, đang nôn nao mong chờ tin tức về người yêu. Nghĩ đến cha mẹ, lòng Kiều thương xót, đau đớn:
“Thương nhớ cha mẹ tựa bên cửa hôm nay,
Ôm ấp ấm lòng những ai đó giờ?
Sân Lai trải qua bao nắng mưa,
Có khi con đã nhìn thấy người kề bên”
Nàng đã đi xa, bỏ lại cha mẹ một mình. Ai sẽ chăm sóc họ? Dù đã cố gắng chấp nhận thực tế để báo hiếu, nhưng lòng Kiều vẫn không ngừng lo lắng, đau đớn khi nghĩ về cha mẹ già yếu đợi chờ con trong sự thất vọng. Điều này càng làm rõ, nàng là một người con hiếu thảo.
Với tâm trạng như vậy, Kiều nhìn xung quanh chỉ thấy nỗi buồn:
“Buồn nhìn cửa bể chiều hôm,
Thuyền nào cánh buồm xa xa.
Buồn nhìn dòng nước mới sa,
Hoa đào man mác, không biết về đâu?
Buồn nhìn cỏ nội héo úa,
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh
Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Buồn trải qua bốn lần, mỗi lần đều khởi đầu bằng một khung cảnh. Cách cấu trúc này nhấn mạnh sâu sắc về nỗi đau của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh nhỏ trong một bức tranh - tâm trạng rộng lớn. Bức đầu tiên: cửa bể chiều hôm, mênh mông màu xám. Trên nền đó nổi lên một cánh buồm, thoáng hiện, không biết đi về đâu. Bức thứ hai: dòng nước mới sa (nước từ trên trời đổ xuống), cánh hoa bị sóng gió dập vùi, lẩn vào hư không. Bức thứ ba: cỏ nội héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tư: gió cuốn mặt duềnh, tiếng sóng ...
Ở đây, chúng ta lại gặp văn phong quen thuộc của Nguyễn Du. Môi trường chỉ làm nổi bật sự luyến tiếc vô tận của Kiều. Mỗi phân đoạn truyện chứa đựng một tâm trạng, phản ánh sâu sắc suy tư và cảm xúc về số phận con người: cô đơn, lạc lõng, trôi dạt, chìm đắm, héo úa và dự báo cho một tương lai bất trắc.
Trong trích đoạn 'Kiều tại lầu Ngưng Bích', thi sĩ Nguyễn Du thể hiện sự tài năng không chỉ trong việc miêu tả cảnh đẹp mà còn trong việc phân tích tâm lý nhân vật. Bút pháp của ông đi sâu vào tận đáy lòng tư duy phức tạp của Kiều, gây ra sự động lòng, đau lòng cho số phận bi thương của cô gái tài năng đó. Cảnh vật và tâm trạng, hoà mình vào nhau, tạo ra một bức tranh đầy ý nghĩa, nổi bật với chủ đề của đoạn trích. Có thể nói, đây là một trong những đoạn trích đẹp nhất trong “Truyện Kiều'.
Trần Thị Thìn
Trích: Mytour