TOP 13 bài Phân tích 2 khổ cuối Bếp lửa xuất sắc nhất của các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em hiểu sâu hơn về tình cảm đáng quý giữa bà và cháu.
Khổ thơ 6, 7 của bài thơ Bếp lửa như một tổng kết tuyệt vời, nhấn mạnh vai trò của bà là một người phụ nữ chân chất, giàu lòng hi sinh. Mời các em cùng đọc bài viết dưới đây của Mytour để hiểu rõ hơn về bài thơ Bếp lửa được học trong chương trình Văn 9, Bài 6 sách Ngữ văn 8 Kết nối tri thức Tập 2.
Dàn ý Phân tích 2 khổ cuối của bài thơ Bếp lửa
Dàn ý số 1
1. Khởi đầu:
Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và bài thơ 'Bếp lửa'.
Dẫn dắt vào 2 khổ thơ cuối của tác phẩm: Những suy tư về bà, về bếp lửa và nỗi nhớ sâu sắc của đứa cháu ở xa.
2. Nội dung chính:
a. Khổ thứ 6: Suy ngẫm về người bà và bếp lửa:
- Hình ảnh 'nắng mưa' lặp lại + từ ngữ 'lận đận': Sự vất vả trong cuộc sống của bà.
- Thời gian dài, tuần hoàn, lặp lại: 'Rồi sớm rồi chiều', 'Mấy chục năm qua, đến tận bây giờ'.
- Những thói quen thường ngày: 'dậy sớm', 'nấu bếp'.
- Điểm nhấn từ 'nấu bếp' + việc liệt kê:
- 'bếp lửa ấp ủ nồng đượm': Hình ảnh được tái hiện từ khổ đầu, thể hiện tình cảm chăm sóc của bà.
- 'niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi', 'nồi xôi gạo mới sẻ chung vui': Tình yêu thương giản dị, sự chia sẻ chân thành.
- 'cả những tâm tình tuổi thơ': Bà khơi dậy trong cháu nhiều phẩm chất tốt đẹp.
- Câu thơ cảm thán: 'Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!': Sự xúc động được thể hiện bằng lời nói.
=> Bà là người trụ lửa, duy trì lửa và truyền lửa.
b. Khổ thứ 7: Nỗi nhớ bà, nhớ bếp lửa của đứa cháu ở xa:
- Đứa cháu giờ đã trưởng thành, ra khỏi quê hương, trải nghiệm nhiều điều mới:
- Chủ đề 'trăm'.
- Phương pháp sắp xếp: 'khói trăm tàu', 'lửa trăm nhà', 'niềm vui trăm ngả'.
- Hồi ức về bà, về bếp lửa:
- Nỗi nhớ về ngọn lửa: Biểu tượng của tuổi thơ ấm áp bên bà.
- Câu hỏi thân mật: 'Sáng mai bà đã vào bếp chưa?...': Nỗi nhớ không phai, khao khát nhớ về bà, về quê nhà.
=> Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại càng làm nổi bật sự nhớ nhung của người cháu, thể hiện tình cảm sâu lắng của cháu dành cho bà.
3. Tổng kết:
- Tái khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của 2 khổ cuối bài thơ 'Bếp lửa'.
- Mở rộng liên hệ.
Kế hoạch số 2
A. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả: Bằng Việt
- Bằng Việt là một trong những nhà thơ của thế hệ lớn trong cuộc chiến chống lại Mỹ cứu nước.
- Thơ của Bằng Việt phản ánh tâm trạng, sâu lắng, và cảm xúc tinh tế, từ đó tạo ra sức hút với độc giả.
- Giới thiệu về tác phẩm 'Bếp lửa'
- Tổng quan về hai khổ cuối
B. Nội dung chính
1. Khổ thơ 'Lận đận... bếp lửa!'
* Những suy tư sâu sắc của nhà thơ và của đứa cháu về cuộc sống của bà:
Bao nhiêu nắng mưa đời bà chịu đựng
Đã bao lâu rồi, cho đến bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Các dòng thơ đầy ý nghĩa, thấm đẫm tình cảm sâu sắc của người cháu dành cho bà. Bà thường dậy sớm để tiếp tục gánh vác lên đôi vai nghĩa vụ nhóm lửa:
Nhóm lửa ấm áp trong tình yêu thương
Nhóm niềm hạnh phúc từ khoai sắn ngọt bùi
Nhóm chia sẻ niềm vui từ nồi xôi gạo mới
Nhóm khơi gợi những tâm hồn thuở nhỏ
2. Khổ thơ 'Cháu hỏi... bếp lên chưa?'
Cháu đã trưởng thành, đã bước vào cuộc sống mới với niềm vui và hạnh phúc, giữa bao gian khó và thử thách. Nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa đơn giản mà ấm áp của bà, và hàng ngày cháu tự hỏi: “Sáng mai này bà đã vào bếp chưa?'. Đó không chỉ là một câu hỏi, mà còn là lời khẳng định: Cháu sẽ mãi nhớ và không bao giờ quên bà và bếp lửa, vì đó là nguồn gốc, là nơi cháu đã trải qua và lớn lên.
C. Tóm tắt kết luận
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
- Tình cảm của tôi dành cho tác phẩm
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1
Trong cuộc đời, mỗi người đều giữ cho mình những ký ức của tuổi thơ ngây thơ, trong sáng. Những ký ức đó là những điều quý giá nhất, có sức mạnh phi thường đẩy lùi những gian khó trong cuộc sống. Bằng Việt cũng có kỉ niệm riêng của mình, đó là thời gian sống cùng bà, cùng bà gắn bó với chiếc bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều đặc biệt trong trái tim của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm giữa hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều này qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác vào năm 1963, khi ông mười chín tuổi và đang đi học ở Liên Xô. Bài thơ đề cập đến những ký ức xúc động về bà và mối quan hệ giữa ông và bà, đồng thời thể hiện lòng kính trọng và biết ơn của ông dành cho bà, gia đình, quê hương, và đất nước. Tình cảm và ký ức về bà được gợi lên từ hình ảnh của chiếc bếp lửa. Ở một nơi xa quê hương, khi gặp hình ảnh của bếp lửa, tác giả đã trở về với ký ức về người bà.
Những khổ đầu bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa đã khơi lên dòng hồi tưởng về bà, là những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ sống bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (bốn lần) nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lý, điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.
Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian và thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa:
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa 'khói lửa' của cuộc sống hiện đại với bếp lửa đơn sơ của bà đã cho thấy sức mạnh bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên mỗi ngày luôn sống mãi trong lòng người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức của tuổi thơ về bà - một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin 'dai dẳng' bất diệt cho thế hệ sau. Vì vậy, nhớ về bà cũng là nhớ về bếp lửa, nhớ về nguồn gốc của dân tộc. Bài thơ kết thúc với câu hỏi nhẹ nhàng thể hiện nỗi nhớ không nguôi và hy vọng vô hạn của người cháu luôn khao khát, nhớ về tuổi thơ, nhớ về gia đình, quê hương, và đất nước.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một tác phẩm đầy cảm xúc. Hình ảnh bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm trạng, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; và sử dụng trùng điệp một cách tinh tế, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa hiện lên, dâng trào, mỗi khi càng trở nên ấm áp hơn. Điều này khiến cho người đọc cảm thấy chạm đáy lòng, xúc động trước kỷ niệm ấu thơ của người cháu và tình cảm của nhà thơ dành cho người bà yêu dấu. Qua đó, chúng ta càng yêu quý, cảm kích hơn tình cảm với gia đình, quê hương, và đất nước. Chỉ khi đó, ta mới thấu hiểu hết ý nghĩa sâu xa của lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…”
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2
Bằng Việt là một trong những nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông toát lên sự thiết tha và nồng thắm. Dù chỉ là tiếng gà mái nhảy ổ cục trong nắng trưa, hoặc chỉ là một bếp lửa chờn vờn sương sớm, nhưng tại sao lại chứa đựng nhiều nghĩa tình đến thế, tại sao lại rơi vào tận sâu trong lòng? Có lẽ những điều nhỏ bé nhất thường chứa đựng tâm tình sâu sắc, thể hiện những giá trị thiêng liêng, và làm hiện lên những tình cảm chân thành, không thể phai mờ. Bài thơ Bếp lửa đã để lại trong lòng chúng ta những dư vị ngọt ngào.
Bài thơ đã gợi lại những kí ức đầy xúc động về người bà và thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng của người cháu dành cho bà, gia đình, quê hương, và đất nước. Tình cảm và những kí ức về bà được gợi lên từ hình ảnh gần gũi của bếp lửa. Trong biết bao kí ức tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa vẫn in sâu trong tâm trí của Bằng Việt.
Suốt bài thơ là những kí ức thời thơ ấu bên bà. Được bà chăm sóc, dạy dỗ, chứng kiến sự trưởng thành của mình. Như một cuộn phim chậm, tất cả những kí ức tràn về, làm đầy lòng tác giả với cảm xúc dâng trào. Hồi ức vẫn còn nguyên, và hiện tại trong tâm trí nhà thơ, những suy tư sâu xa bắt đầu nảy sinh:
'Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm'.
Cảm xúc 'biết mấy nắng mưa' tái hiện như ở khổ một, đầu bài thơ:
'Cháu thương bà biết mấy nắng mưa'
Liệu đó có phải là sự nhấn mạnh, việc làm nổi bật những khó khăn trong cuộc đời bà? Cuộc đời của người bà đan xen trong hai từ 'lận đận'. Bao nhiêu gian khổ, vất vả, khó khăn, 'biết mấy nắng mưa', bà âm thầm chịu đựng để lo lắng và chăm sóc cho con cháu.
Mấy chục năm đã trôi qua, chiến tranh vẫn còn, khó khăn vẫn chưa dừng lại, nhưng bà vẫn 'giữ thói quen dậy sớm'. Cuộc đời bà vẫn tiếp tục gian khổ, vất vả như vậy, dường như không bao giờ kết thúc. Bà là người thức khuya, dậy sớm, chịu nhiều gian khổ nhất trong nhà, nhưng cũng chính là người khơi lên ngọn lửa của tình yêu thương trong gia đình:
'Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ'.
Từ 'nhóm' lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên 'lửa ấp iu nồng đượm', bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê 'khoai sắn ngọt bùi', bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. 'Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui', bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.
Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của 'tâm tình tuổi nhỏ'.
Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.
Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.
Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ẩm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:
'Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'
Câu thơ chỉ với tám chữ nhưng nó tóm gọn suy nghĩ và tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa kết hợp với hình ảnh người bà - người truyền lửa, nhóm lửa, giữ lửa, xây dựng tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của tác giả, dù lúc này, hai bà cháu đã chia xa.
Thật vậy, chỉ khi ta phải sống xa gia đình, xa người thân, những ký ức mới hiện về. Và với tác giả cũng vậy.
Dù giờ đây, mặc dù không còn ở gần bà, gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn dõi theo mảnh đất quê, nơi có người bà yên bình, cô đơn:
'Giờ cháu đã đi xa. Có khói bếp trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?...'
Bao năm dài trải qua, đứa cháu đã trưởng thành, được bà và tình yêu của bà dẫn dắt bay vào cuộc sống rộng lớn, đầy niềm vui, hạnh phúc. Nhưng cháu vẫn không quên bà, không quên ngọn lửa bên bà. Câu hỏi tự hỏi như một lời nhắc nhở:
'- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...'
Bài thơ kết thúc một cách tinh tế, gợi lại những suy tư sâu sắc trong lòng người đọc. Người cháu nhắc nhở bản thân luôn giữ trong lòng 'Bếp lửa' của quê hương, của bà, điều mạnh mẽ giúp chúng cháu ở xa vững tin. 'Bếp lửa' không chỉ là thực tế mà còn là biểu tượng của tình yêu, niềm tin, và gốc rễ gia đình và quê hương, sức mạnh kiên cường của con người.
Bài thơ kết thúc với một dấu câu đặc biệt, dấu chấm lửng, mở ra một bài học về lòng biết ơn, nhân nghĩa, sự trung thành với gia đình, với láng giềng, với quê hương, với nguồn gốc.
Từ tình cảm bà cháu, bài thơ lan tỏa ra tình yêu với quê hương, với Tổ quốc. Và hình tượng 'bếp lửa' trở thành niềm tin sâu sắc, kỳ diệu trong tâm hồn tác giả, là nguồn động viên cho người cháu khi bước ra khỏi quê hương đi tìm ước mơ.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3
Ai sinh ra và lớn lên đều mang theo một hành trang ký ức của tuổi thơ, thời gian trong sáng bên người thân. Bằng Việt cũng không ngoại lệ, ông có một tuổi thơ dịu dàng bên người bà, những kỷ niệm đó luôn hiện hữu dù sau này ông đã trưởng thành và xa nhà. Kỷ niệm về bà và chiếc bếp lửa luôn sống mãi trong ông. Đó là lý do của sự xuất hiện của bài thơ Bếp lửa.
Trải qua bảy năm sống cùng bà trong những năm chiến tranh, đứa cháu phải ở lại với bà khi bố mẹ phải đi công tác. Dường như đối với cháu, đó là một thời gian hạnh phúc không gì sánh được. Mỗi ngày, cháu cùng bà nhóm bếp. Trong khói bếp mờ mịt, bà trở thành một bà tiên trong câu chuyện cổ tích của cháu. Nếu cha là cánh chim nâng đỡ ước mơ con bay xa, mẹ là cành hoa tươi đẹp con gói gọn trong vòng tay, thì với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là cành hoa riêng biệt của ông.
Từ những kí ức về tuổi thơ, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hy sinh cả cuộc đời để nhóm lửa bếp và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, sáng rực trong gia đình:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Bà là một người phụ nữ tầm thường, nhưng giàu lòng hi sinh. Bếp lửa bà được thắp lên mỗi sáng không chỉ bằng lửa bếp mà còn bằng ngọn lửa trong tâm hồn, là ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin. Từ bếp lửa giản dị, quen thuộc, người cháu nhận ra nhiều điều 'kỳ diệu' và 'thiêng liêng'. Ngọn lửa được bà nhóm lên từ lòng dũng cảm của bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: 'Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ'. Bà âm thầm chịu đựng, hy sinh vì: 'Bố ở chiến khu, bố còn việc bố'. Chính vì thế, đứa cháu cảm nhận được trong bếp lửa giản dị mà thân thuộc có những nỗi vất vả, gian khổ của người bà.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.
Trong bài thơ, người bà hiện diện tới mười lần cùng bếp lửa với vẻ đẹp giản dị, lòng hi sinh và tình yêu thương dành cho con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đưa ra hình ảnh của “ngọn lửa”
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Người cháu năm xưa giờ đã lớn lên, đi xa. Trước mắt là những 'niềm vui trăm ngả', 'có khói trăm tàu', 'có lửa trăm nhà', một thế giới rộng lớn với nhiều điều mới mẻ được khám phá. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà. Hình ảnh người bà luôn ấm áp và động viên cháu trên con đường phía trước.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng 'bếp lửa' mang ý nghĩa cả vật chất và tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, sâu sắc đã làm cho người đọc bị cuốn hút. Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt như một triết lý tiềm tàng. Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ cần được trân trọng và chúng sẽ là động lực trong cuộc hành trình của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng biết ơn và tình yêu sâu sắc đối với người bà. Biết ơn chính là cách thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước khi bước đi xa.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 4
Từ những kí ức về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hy sinh cả đời mình để nhóm lửa bếp và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Bà là người phụ nữ tầm thường, giàu lòng hy sinh. Bếp lửa bà sưởi ấm mỗi sáng không chỉ bằng củi rạ mà còn được sưởi ấm bởi chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương và niềm tin. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều 'kỳ diệu' và 'thiêng liêng'. Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà im lặng chịu đựng, hy sinh vì: 'Bố ở chiến khu, bố còn việc bố'. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.
Trong bài thơ, người bà xuất hiện đến mười lần, cùng với hình ảnh của bếp lửa, với vẻ đẹp tĩnh lặng, hy sinh và yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã chuyển sang hình ảnh của “ngọn lửa”:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành và rời xa. Trước mắt là những 'niềm vui trăm ngả', 'có khói trăm tàu', 'có lửa trăm nhà', một thế giới rộng lớn với hàng loạt điều mới mẻ được mở ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng tự hỏi: “Sáng mai này bà có nấu bữa sáng chưa?”. Mỗi ngày, câu hỏi này là cách cháu nhớ về bà, hình ảnh của người bà luôn làm cho lòng cháu ấm áp và an lòng trên con đường tiến tới.
Bằng Việt đã tạo ra hình ảnh “bếp lửa” không chỉ mang ý nghĩa thực tiễn mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Sắc thái tâm trạng trầm lắng, giàu suy tư đã làm cho người đọc cảm động. Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt như một triết lí tiềm ẩn. Những gì đẹp đẽ từ tuổi thơ xứng đáng được trân trọng và nó sẽ hỗ trợ con người trong hành trình dài, sâu rộng của cuộc sống. Bằng Việt đã thể hiện tình yêu thương và lòng biết ơn với bà một cách sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu với quê hương, đất nước, ngay cả khi chúng ta phải rời xa.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 5
Bằng Việt là một trong những nhà thơ của thế hệ tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của Bằng Việt mang đậm nét tâm trạng, trầm lắng, và cảm xúc sâu lắng, tạo sức hút với độc giả. Bài thơ 'Bếp lửa' được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang theo học ngành Luật ở nước ngoài, đã diễn đạt tình cảm bà cháu một cách chân thành và cảm động qua những dòng hồi tưởng. Điều này được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài.
Khổ thơ đầu tiên là những suy tư sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về cuộc đời của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm qua, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Một lần nữa, tác giả nhấn mạnh cuộc sống của bà vẫn chứa đựng nhiều khó khăn, thiếu thốn “lận đận, biết mấy nắng mưa”. Bà cần phải kiên nhẫn, hy sinh, thức khuya “dậy sớm” vì con cháu. Những câu thơ này thể hiện tình cảm sâu sắc của đứa cháu dành cho bà. Bà thức sớm để tiếp tục nhóm lên ngọn lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
“Nhóm” được nhắc lại bốn lần liên quan đến hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà nhóm lên những gì? Đầu tiên là nhóm bếp lửa “ấp iu nồng đượm” để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm. Bà nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn no lòng, mang đến cho đứa cháu nhỏ hương vị bùi của sắn, của tình thương yêu vô hạn. Sau đó, “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà dạy cháu mở lòng với mọi người xung quanh, biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng. Cuối cùng, “nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ” – bà không chỉ chăm sóc cho cháu về vật chất mà còn làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm lung linh huyền ảo. Theo suy ngẫm đó, nhà thơ đi đến kết luận rất tự nhiên và hợp lý:
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Đúng vậy. Bếp lửa dù đơn giản, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng rất cao quý, kì diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người truyền lửa, nhóm lửa, giữ lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa được nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu từ bên ngoài mà còn được nhóm lên từ chính ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa trở thành một phần tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của cháu. Hơn thế, qua bếp lửa của bà, người đọc cảm nhận sâu sắc tinh thần của một dân tộc vất vả và tình nghĩa.
Trong bài thơ, mười lần xuất hiện bếp lửa là mười lần tác giả nhắc đến bà. Người bà đã, đang và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất với cháu dù ở bất kì nơi nào. Bốn câu kết thể hiện một cách xúc động tình thương nhớ, kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:
Bây giờ cháu đã ra đi. Có khói trăm tà
Có lửa trăm nhà, tiền vui trăm ngả
Nhưng cháu vẫn không bao giờ quên nhắc nhở.
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Cháu đã trưởng thành, sống trong một cuộc sống mới vui vẻ, đẹp đẽ, giữa ngọn khói của hàng trăm tàu lửa và những căn nhà. Nhưng cháu vẫn không thể quên được bếp lửa đơn giản, ấm áp của bà. Mỗi ngày, cháu tự hỏi: “Sớm mai này bà có nhóm bếp lên không?'. Câu hỏi này cũng là sự khẳng định: Cháu sẽ không bao giờ quên và không thể nào quên được bà và bếp lửa vì đó chính là nguồn cội, là nơi cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ đó. Chúng ta biết rằng bài thơ này được viết khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Ở nơi xa xôi lạ, tác giả nhớ về bếp lửa và bà, cũng như nhớ về tổ ấm gia đình, niềm vui sum họp và tình thương quê hương.
“Bếp lửa” là một bài thơ hay, kết hợp một cách tự nhiên giữa biểu cảm, tự sự và trữ tình, với nhiều hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Tình cảm giữa bà và cháu trong bài thơ là tình yêu thiêng liêng, đầy cảm động. Bà dành cho cháu những sự hi sinh yêu thương. Bà là mái ấm che chở, bảo vệ tuổi thơ dại khờ của cháu trước những mất mát, đau khổ trong cuộc sống. Dù cháu lớn lên, xa bà, cháu vẫn nhớ và biết ơn bà sâu sắc. Ngọn lửa mà bà trao cho, cháu giữ vững để trở thành ngọn lửa bất diệt. Bài thơ đã thức tỉnh trong lòng người đọc một tình yêu đẹp đối với gia đình, quê hương, và đất nước.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 6
Hai khổ thơ cuối bài thơ Bếp lửa là sự tái hiện lại những ký ức về người bà đơn giản của một thời thơ ấu hiện hữu trong tâm trí của người cháu với những gian khó, vất vả. Hình ảnh người bà đã trở thành một phần của ký ức trong lòng cháu, là một mảnh ghép trong tâm hồn cháu để rồi mãi sau này khi cháu đã trưởng thành và phải sống xa nhà thì hồi ức về sự hi sinh của bà đã nhắc nhở cháu không được quên đi những sự quan tâm và tình cảm ấm áp của bà, không quên hình ảnh quen thuộc của quê hương.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
.........
'Giờ cháu đã ra đi, nơi xa lạ.
Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà.
Nhưng lòng cháu vẫn nhớ mãi:
- Bà ơi, sớm mai bà nhóm lửa chưa?...'
Trong cuộc sống, mỗi người đều có những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ trong sáng. Những kí ức ấy là những điều thiêng liêng, gắn bó nhất, mang lại sức mạnh phi thường trong hành trình cuộc sống. Bằng Việt cũng có kỉ niệm của riêng mình, đó là những ngày tháng bên bà, cùng bà làm việc nhà, đặc biệt là nhóm lên bếp thân thương. Hơn nữa, trong lòng Bằng Việt còn chứa đựng tình cảm sâu sắc với bà. Điều này được thể hiện rõ qua bài thơ 'Bếp lửa' của ông.
Bây giờ, khi đang ở xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn nhớ về bà:
'Giờ cháu đã ra đi, nơi xa lạ.
Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà.
Nhưng lòng cháu vẫn nhớ mãi:
- Bà ơi, sớm mai bà nhóm lửa chưa?...'
Rời xa vòng tay âu yếm của bà để bước vào chân trời mới, tình cảm ấm áp của bà và đứa cháu đã làm ấm lòng tác giả. Trong lòng, tác giả luôn giữ vững niềm nhớ về góc bếp, nơi mặt trời và mưa cùng chứng kiến hạnh phúc của hai bà cháu. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên, vì đó là nguồn gốc của cuộc sống, nơi tuổi thơ được nuôi dưỡng và lớn lên.
Bài thơ kết hợp một cách tinh tế giữa cảm xúc, mô tả, tự sự và phê phán. Điều thành công của bài thơ là khả năng tạo ra hình ảnh về bếp lửa và người bà, làm nền tảng cho mọi kí ức, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình yêu thương giữa bà và cháu. Đồng thời, nó thể hiện lòng tôn trọng và biết ơn sâu sắc của người bà, cũng như lòng yêu quý gia đình, quê hương, và đất nước.
Sau khi đọc xong bài thơ, nếu nhắm mắt lại và tưởng tượng, bạn sẽ thấy rõ hình ảnh của bếp lửa nồng ấm và hình bóng bà yên bình ngồi bên cạnh. 'Hình ảnh này hiện ra một cách sống động, rõ ràng như một bức tranh, một tác phẩm điêu khắc...'
Bài thơ 'Bếp lửa' sẽ luôn sống mãi trong lòng độc giả nhờ vào sức mạnh truyền cảm sâu sắc của nó, bởi nó đã thức tỉnh trong ta một tình cảm cao đẹp dành cho gia đình, những người đã tô điểm thêm màu sắc cho tuổi thơ trong trắng của chúng ta.
Phân tích hai khổ cuối của bài thơ 'Bếp lửa' - Mẫu 7
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt được viết vào năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học luật ở nước ngoài. Nó truyền tải tình cảm sâu lắng của tác giả đối với bà cháu qua những kỷ niệm chân thành và đầy cảm xúc. Điều này được thể hiện rõ nhất qua hai khổ cuối của bài thơ.
Trong suốt bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện mười lần, mỗi lần là một lời nhắc nhở đến bà. Những dòng thơ rõ ràng như những làn sóng đang dâng cao tạo nên một biển cả tình cảm chảy vào lòng bà. Bà luôn là, đang là và sẽ mãi là người quan trọng nhất với cháu, bất kể ở đâu. Bà đã trở thành một phần không thể thiếu trong trái tim của cháu. Giờ đây, khi ở xa bà, Bằng Việt vẫn luôn nhớ về bà. Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục tình cảm nhớ thương không nguôi, thể hiện sâu sắc lòng biết ơn của tác giả đối với người bà đã từng che chở, bảo bọc mình:
“Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Bây giờ, tác giả đã rời xa quê nhà, đã trưởng thành, và đã rời xa vòng tay của người bà. Cháu đã được trải qua những trải nghiệm mới, cuộc sống phong phú hơn, nhưng tình cảm nhớ thương bà vẫn không bao giờ phai nhạt. Tình cảm ấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi nhỏ nhắn ở cuối bài thơ thể hiện một cách tinh tế, thú vị và gợi nhớ lòng độc giả về ngọn lửa quê hương, về người bà đã trở thành nguồn động viên tinh thần của cháu khi ở xa nhà. Đó là một kỷ niệm đầy cảm xúc, sâu lắng. Hình ảnh bếp lửa lặp lại trong bài thơ, vừa mang tính cụ thể, vừa có ý nghĩa sâu sắc. “Bếp lửa ấm áp” đã trở thành biểu tượng của tình yêu thương vô bờ bến từ người bà, luôn là nguồn động viên tinh thần cho tác giả.
Rời xa vòng tay chăm sóc của bà để khám phá chân trời mới, tình cảm giữa hai bà cháu đã là nguồn động viên cho tâm hồn tác giả trong những ngày giá rét tại Nga. Dù đã trưởng thành, đứa cháu nhỏ ngày xưa vẫn luôn nhớ về góc bếp, nơi mà hai bà cháu đã cùng nhau trải qua bao kỷ niệm dưới nắng mưa. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và không thể quên được, bởi đó là nguồn gốc, nơi mà tuổi thơ đã được chăm sóc để trưởng thành.
Người cháu ngày xưa đã trưởng thành, đi xa. Dù trước mắt là 'niềm vui trăm ngả', 'khói trăm tàu', 'lửa trăm nhà', một thế giới rộng lớn với nhiều điều mới mẻ, nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: 'Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?'. Mỗi ngày, câu hỏi 'Sớm mai này' là cháu nhớ về bà, hình ảnh người bà luôn ấm lòng và động viên cháu trên hành trình của mình.
Từ những suy ngẫm của người cháu, khổ thơ cuối bài 'Bếp lửa' thể hiện một triết lý sâu sắc: Những kỷ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức ảnh hưởng, là nguồn động viên trong cuộc sống. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu quý trọng ông bà, cha mẹ, từ những điều gần gũi và bình dị nhất.
Phân tích 2 khổ cuối bài 'Bếp lửa' - Mẫu 8
Có lẽ, khi nhớ đến hình ảnh bếp lửa, trong lòng mỗi người lại hiện lên những kỷ niệm thơ ấu với hương vị của khói bếp. Vì vậy, nhà thơ Bằng Việt đã tái hiện hình ảnh người bà tương tư qua hai khổ cuối của bài thơ 'Bếp lửa' bằng tất cả tình cảm và chân thành của mình.
Tác giả Bằng Việt sinh năm 1941, thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông phản ánh tâm trạng sâu lắng, ngôn ngữ điềm đạm và hệ thống hình ảnh độc đáo. 'Bếp lửa' được viết vào năm 1963 và sau đó được đưa vào tập 'Hương cây - Bếp lửa' năm 1968, thể hiện sự linh hoạt trong sử dụng các loại thể thơ.
Đến với những khổ thơ cuối của tác phẩm, nhà thơ đã thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của mình, của đứa cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam:
'Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa, Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ... Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'
Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó thức khuya dậy sớm vì bữa cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm kích và biết ơn bà của mình. Bà không quản khó khăn, mệt nhọc 'Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa' để thổi nên nồi cơm chan chứa tình yêu thương. Tác giả diễn tả cuộc đời bà lận đận, vất vả, đồng thời thể hiện sự thấu hiểu một cách sâu sắc tình cảm của đứa cháu dành cho bà. Dù mấy chục năm trôi qua nhưng thói quen của bà vẫn không hề thay đổi 'thói quen dậy sớm' để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, niềm yêu thương cho đứa cháu bé nhỏ. Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay gầy guộc mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu đối với con cháu. Bà 'nhóm bếp lửa', 'nhóm nồi xôi gạo' là hình ảnh tả thực công việc nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà còn 'nhóm niềm yêu thương', 'nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ' là những ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý, bà đã khơi dậy trong tâm hồn đứa cháu và những người xung quanh niềm yêu thương và sự sẻ chia. Chính vì vậy mà bếp lửa thật bình thường, giản dị và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam nhưng bếp lửa cũng thật kì diệu và thiêng liêng để nhà thơ phải thốt lên rằng 'Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa'. Bếp lửa thiêng liêng, thần kì vì nó luôn gắn liền với bà - người giữ lửa, nhóm lửa và truyền lửa, tạo nên tuổi thơ của đứa cháu. Bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống, tinh thần của cháu.
Trong 4 câu thơ cuối, nhà thơ đã bộc lộ nỗi thương nhớ, tấm lòng kính yêu, biết ơn sâu sắc dành cho bà của mình:
'Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: - Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?'
Tác giả đã mô tả sự trôi chảy của thời gian, sự thay đổi của không gian và vẽ ra một hiện thực rằng người cháu ngày xưa giờ đã trở thành người trưởng thành, đã đi xa 'có ngọn khói trăm tàu', 'có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả' nhưng những kí ức về bà, về tuổi thơ vẫn chưa bao giờ phai nhạt. Người cháu đã trải qua nhiều thay đổi lớn trong cuộc sống, đã trải nghiệm nhiều niềm vui mới nhưng không bao giờ quên được ngọn lửa của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ từ tuổi thơ, là nguồn động viên cho người cháu trong hành trình trưởng thành. Khổ thơ kết thúc như chứa đựng một đạo lý cao đẹp, bền vững của người Việt Nam: 'uống nước nhớ nguồn'. Đạo lý ấy được nuôi dưỡng từ thuở thơ ấu, trở thành động lực thúc đẩy mỗi người bay cao, bay xa hơn trên con đường tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời.
Nhà thơ đã sử dụng nhiều phương thức biểu đạt như biểu cảm, tự sự, miêu tả, bình luận và sử dụng hình ảnh thơ độc đáo, tươi trẻ để diễn đạt về hình ảnh của người bà và nỗi nhớ của đứa cháu dành cho bà. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện tình cảm thiêng liêng với gia đình, quê hương, đất nước thông qua việc nhớ về bà, về bếp lửa là nhớ về cội nguồn dân tộc.
Cảm xúc của nhà thơ trào dâng khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Hai khổ thơ cuối cùng của bài thơ như một sự tổng kết, tán dương rằng bà là một người phụ nữ tần tảo, hiếu khách, luôn chăm sóc cho mọi người mà không ngần ngại vất vả, khó nhọc.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 9
Ở khổ thơ thứ sáu, nhà thơ suy ngẫm về bà và cuộc đời của bà:
Lận đận cuộc đời bà biết bao nắng mưa
Mấy chục năm trôi qua, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Đảo ngữ ''lận đận'' ở đầu câu nhấn mạnh sự gian khổ của cuộc đời bà, hình ảnh ''nắng mưa'' lặp lại thể hiện gian khổ, mệt mỏi của bà, người phụ nữ kiên cường, chăm chỉ suốt bao nhiêu năm tháng.
Bà không chỉ nhóm lửa bằng bàn tay già nua, gầy guộc mà bà còn nhóm lửa bằng tấm lòng nhân hậu dành cho cháu:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa!
Từ ''nhóm'' được nhắc lại 4 lần tăng cường hình ảnh ngọn lửa, bà khơi lên trong tâm hồn cháu những tình cảm tốt đẹp, tình yêu gia đình, quê hương, và ý chí nghị lực. Hình ảnh bếp lửa quen thuộc nhưng trở thành kỳ lạ và thiêng liêng với người cháu, thể hiện cảm xúc sâu lắng về hình ảnh bà và bếp lửa.
Kết thúc bài thơ, người cháu tỏ ra một cách đầy cảm xúc tình yêu, nỗi nhớ và lòng biết ơn vô hạn đối với bà kính yêu:
Giờ cháu đã đi xa. Có khói bốn phía,
Có lửa khắp nhà, niềm vui ngập tràn,
Nhưng chẳng bao giờ quên nhắc nhở
- Sớm mai nay, bà nhóm bếp lên chưa?
Đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã trưởng thành, rời xa quê hương đến sống trong thành thị sôi động. Từ điệp ngữ ''Trăm'' mở ra một không gian lớn mở, đầy những niềm vui rực rỡ, xung quanh không còn tiếng hót của chim sẻ hay tiếng rì rào của bếp lửa quê nhà. Nhưng trong lòng cháu vẫn cháy bóng hình bếp lửa quê hương và nỗi nhớ mãi không phai về bà kính yêu. Câu hỏi ''- sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?..'' đặt ra nhẹ nhàng nhưng gợi lên nỗi nhớ đầy mãnh liệt, bất tận của cháu dành cho bà và cũng là tình yêu thương sâu sắc với quê hương, đất nước.
Phân tích 2 khổ cuối bài thơ Bếp lửa - Mẫu 10
Quê hương luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong đó, nhà thơ Bằng Việt đã sáng tác bài thơ đầy ý nghĩa 'Bếp lửa'. Bài thơ gợi lên những kỷ niệm xúc động về người bà và mối tình bà cháu. Có lẽ với người đọc, những dòng thơ này là những suy tư sâu sắc về bà và là lời tâm sự của người trưởng thành, để lại ấn tượng sâu sắc.
Dựa trên những suy nghĩ về bà, cháu tỏ ra một cách mãnh liệt tình yêu thương và lòng biết ơn vô tận đối với bà:
'Cuộc đời bà biết bao nắng mưa'.
Câu thơ sử dụng từ láy tạo hình ảnh với hai thanh trắc 'lận đận' phép đảo ngữ kết hợp hình ảnh ẩn dụ (biết bao nắng mưa) đã truyền đạt chân thành cảm xúc của cháu và hình ảnh khó khăn, vất vả, lam lũ của cuộc đời bà để nhấn mạnh thêm sự hy sinh, cần mẫn của bà. Qua những khó khăn, thách thức đó, hình ảnh bà vẫn không bao giờ tách rời với hình ảnh bếp lửa. Cháu suy nghĩ rằng trong cuộc sống hiện tại, mặc dù đã đỡ khó khăn hơn nhưng bà vẫn 'Giữ thói quen dậy sớm'. ' Mấy chục năm rồi', lời thơ như đếm ngược thời gian, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một cuộc đời bà thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Cháu cũng nhận ra bà là người nhân hậu, giàu tình yêu thương, đức hi sinh qua công việc hàng ngày của bà.
'Bếp lửa ấm áp, lòng ấm nồng,
Nhóm tình thương, yêu thương làm ngọt bùi,
Nhóm niềm vui, sẻ chung nỗi buồn,
Nhóm dậy cả những tâm tình nhỏ bé'
Điệp ngữ 'nhóm' được lặp lại 4 lần ở đầu mỗi câu thơ, kết hợp với biện pháp liệt kê đã truyền đạt và khơi dậy biết bao tình thương, biết bao xúc động trong lòng người đọc, khẳng định công việc nhóm bếp luôn gắn liền với bà, đồng thời gợi ra ý nghĩa biểu tượng của tấm lòng bà. Khi lửa bắt đầu 'ấm áp', bà đã truyền cho cháu tình thương ruột thịt. Nhóm tình quê 'yêu thương làm ngọt bùi', bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. 'Nhóm niềm vui, sẻ chung nỗi buồn', bà dạy cháu luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh. Và từ đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên những năm tháng đầy ý nghĩa, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khó, bà đã gieo mầm ước mơ cho cháu bay vào cuộc sống rộng lớn. Tất cả những gì cháu có hôm nay là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bước vào cuộc đời. Chính vì thế, tác giả đã viết rằng 'Nhóm dậy cả những tâm tình nhỏ bé'. Bà không chỉ hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ, dù không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể 'khoai sắn', 'xôi gạo' và tượng trưng yêu thương, tâm tình đan xen, quấn quýt vào nhau giữa cuộc sống thường nhật và giá trị tinh thần. Bà là người nhóm lửa không chỉ để giữ lửa mà còn để truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Cháu tỏ ra trực tiếp tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với bà.
Kể từ đó, Nhà thơ đã thốt lên trong lòng nhớ và biết ơn sâu sắc đối với 'Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng!'. Câu thơ này với từ cảm thán 'ôi' như chứa đựng biết bao tâm trạng, kết hợp với hình ảnh ẩn dụ của bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng, làm nổi bật tấm lòng ấm áp của bà, nơi mà cháu được dưỡng nấng khôn lớn. Hình ảnh này cùng với lời bình luận đã tạo nên nền tảng hoàn hảo cho sự suy tư của cả tác giả và độc giả về cuộc sống giản dị và tình cảm của bà. Dù ở xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng về người bà yêu thương.
'Bây giờ cháu đã xa rồi.
Khói bốc từ trăm chiếc tàu.
Lửa lan từ trăm căn nhà.
Nỗi vui lan tỏa khắp ngả đường.'
Dấu chấm đứng ở giữa dòng thơ tạo ra một sự gián đoạn dài như là quá khứ đã trôi xa so với hiện tại. Sự kết hợp của việc liệt kê và từ 'trăm' mở ra một thế giới lớn lao với nhiều điều mới mẻ. Tuổi thơ đã rời xa, đứa cháu bé xíu ngày xưa giờ đã trở thành người trưởng thành, bay lên cao, bay xa đến những chân trời rộng lớn có 'khói từ trăm chiếc tàu', 'lửa từ trăm căn nhà', 'niềm vui lan tỏa khắp ngả đường'. Tuy nhiên, cháu vẫn không quên bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi mà hai bà cháu luôn bên nhau. Mỗi ngày, cháu vẫn tự hỏi 'Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?'. Cháu sẽ không bao giờ quên, bởi đó là nơi mà tuổi thơ cháu đã được dưỡng nấng. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa vững chắc nhất trong cuộc sống của cháu. Dù ở xa xôi Nga, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi, nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa vẫn luôn sống mãi trong tâm trí cháu.
Nhờ vào các biện pháp tu từ tinh tế, hai dòng thơ cuối của bài thơ 'Bếp lửa' đã giúp độc giả cảm nhận được toàn bộ suy tư của cháu về cuộc sống của bà và bộc lộ nỗi nhớ thương sâu sắc. Đọc những dòng thơ đó, ta nhận ra rằng ở Bằng Việt, có tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng biết ơn vô hạn đối với bà và cả quê hương. Tình cảm ấy thực sự đáng quý.
Phân tích khổ thơ 6 và 7 của bài thơ Bếp lửa
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng phong phú, bất tận cho văn học và nghệ thuật. Viết về chủ đề này, nhà thơ Bằng Việt đã tạo ra một tác phẩm đặc biệt ý nghĩa mang tên 'Bếp lửa'. Tác phẩm này đã thành công trong việc mô tả lại một cách sinh động mối quan hệ gắn bó và thân thiết giữa bà và cháu. Đặc biệt, hai dòng thơ cuối cùng đã diễn tả chân thực nỗi nhớ và tình yêu thương sâu sắc mà đứa cháu dành cho người bà kính yêu.
Sau khi hồi tưởng về những thời kỳ khó khăn và vất vả từ thời thơ ấu, nhân vật chân thành đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh và cống hiến của bà:
'Cuộc đời bà biết mấy nắng mưa
Đã mấy chục năm, từ ngày xưa đến nay
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm'
Hai từ 'nắng mưa' đã được sử dụng trong khổ thơ đầu tiên của bài. Đó là biểu tượng cho những khó khăn, gian khổ mà bà phải trải qua. Cuộc sống của bà 'lận đận' với nhiều khó khăn. Từ những năm tháng 'khổ cực khổ nạn', 'địch đốt làng đốt rừng',... Mặc dù vậy, bà vẫn kiên trì sớm hôm, chăm sóc và dạy dỗ đứa cháu nhỏ thành người. Sự đảo ngữ đã biến câu thơ thành một lời cảm thán, thể hiện sự thương tiếc với 'cuộc đời bà'. Câu thơ 'Đã mấy chục năm, từ ngày xưa đến nay' miêu tả một khoảng thời gian dài, vất vả và lặp lại. Bà đã hy sinh và làm việc chăm chỉ hàng chục năm, vẫn luôn sớm dậy để lo cho cháu lớn lên, thành người.
Tiếp tục cảm xúc ấy, nhân vật chân thành đã nhấn mạnh ý nghĩa to lớn và cao quý của tình yêu thương mà bà dành cho đứa cháu thơ ấu ngày xưa:
'Nhóm bếp lửa ấp áp đầy yêu thương
Nhóm niềm thương mến, khoai sắn ngọt lịm
Nhóm nồi xôi gạo mới, chia sẻ niềm vui
Nhóm làm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ'
Một lần nữa, cụm từ 'ấp áp đầy yêu thương' đã được tác giả sử dụng. Bếp lửa của bà không chỉ là nơi nấu nướng bằng đôi bàn tay khéo léo mà còn là biểu tượng của tình thương, sự chăm sóc và âu yếm. Ánh lửa soi sáng mọi ngóc ngách, làm cho đứa cháu nhỏ cảm nhận rõ ràng hơn tình yêu thương từ bà. Những 'khoai sắn ngọt lịm', 'nồi xôi gạo mới' được chia sẻ, tạo nên sự ấm áp không chỉ dành riêng cho hai bà cháu mà còn lan tỏa đến mọi người. Từ kết hợp 'chia sẻ niềm vui' đã thể hiện được niềm hạnh phúc của sự đoàn kết, sẻ chia. Hơn nữa, ngọn lửa không chỉ sưởi ấm không gian lạnh lẽo mà còn thắp sáng những 'tâm tình tuổi nhỏ', những ước mơ trong lòng đứa cháu. Và khi cảm xúc tràn đầy, nhân vật chân thành phải thốt lên:
'Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa!'
Hình ảnh của chiếc bếp lửa giản dị, gần gũi, quen thuộc với mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Mặc dù vậy, nó vẫn rất 'kỳ diệu'. Chỉ là một chiếc bếp lửa nhưng lại có thể khơi gợi trong tâm trí của nhân vật biết bao cảm xúc, kỷ niệm, hồi ức. Chính vì thế mà hình ảnh của bếp lửa trở nên 'thiêng liêng'. Sự thiêng liêng đó gắn liền với kỷ niệm về người bà đáng kính, trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn của đứa cháu nhỏ ngày xưa.
Đứa cháu bây giờ đã trưởng thành, đã đi qua nhiều nơi, trải qua nhiều trải nghiệm hơn xưa. Tuy vậy, trong lòng cháu vẫn luôn tồn tại hình ảnh của bếp lửa, của người bà yêu quý:
'Bây giờ cháu đã đi xa. Khói bốc bên hàng trăm tàu
Lửa sáng trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng lòng cháu không bao giờ quên:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...'
Một lần nữa, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp. Từ 'trăm' lặp lại ba lần cùng với các hình ảnh 'khói', 'tàu', 'lửa', 'nhà', 'niềm vui', 'ngả' đã tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Việc 'đi xa' đã giúp nhân vật trữ tình mở mang tầm mắt, thấy được nhiều điều mới mẻ, hấp dẫn trên thế giới. Tuy nhiên, càng đi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa lại càng nhớ về bà, không ngừng tự nhắc nhở mình về những kí ức đẹp đẽ của quá khứ. Câu hỏi cuối cùng như một lời thăm hỏi đầy xúc động, nghẹn ngào. Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại càng làm nổi bật hơn nỗi nhớ thương của người cháu ở phương xa. Từ đó, mang đến nhiều suy tư, trải nghiệm sâu sắc cho người đọc về giá trị của tình cảm gia đình.
Với hai khổ thơ ngắn gọn, Bằng Việt đã vẽ nên một bức tranh đẹp để tôn vinh tình thân thiết giữa bà cháu, đầy cảm động. Tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ, kết hợp với các hình ảnh gần gũi với cuộc sống hàng ngày để làm cho độc giả cảm nhận rõ hơn sự ấm áp, tình thương giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả đã góp phần làm nổi bật sự tài năng văn chương của Bằng Việt và tôn vinh hình ảnh của người bà đáng kính.
Nhận định về hai khổ cuối bài “Bếp lửa”
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trẻ nổi tiếng thuộc thế hệ thế hệ những nhà thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Bằng Việt thường mang đậm tinh thần trong sáng của tuổi trẻ và nhấn mạnh vào những kỷ niệm đẹp từ thời thơ ấu, tạo ra những ước mơ của tuổi trẻ. Bài thơ “Bếp lửa” là một ví dụ tiêu biểu cho điều này. Bài thơ đã mô tả một cách sâu sắc và đầy cảm xúc tình cảm của nhà thơ dành cho người bà và bếp lửa. Trong đó, hai đoạn thơ cuối cùng là những suy tư về bà và bếp lửa của nhà thơ:
Bao nắng mưa, bà qua bao đời
…………………………..
– Sớm mai nay, bà có dậy sớm không?…
Bài thơ “Bếp lửa” viết vào năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm sử dụng thể thơ tự do, thuộc tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng cách kết hợp biểu cảm, tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã tái hiện hình ảnh bếp lửa liên quan chặt chẽ đến người bà, trở thành điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về mối quan hệ bà cháu.
Trong những khổ thơ đầu, Bằng Việt kể về kí ức ông sống cùng bà, từ đó thể hiện tình cảm sâu nặng, sự thấu hiểu đối với những vất vả mà bà phải chịu đựng. Tình cảm đó tiếp tục được thể hiện ở hai khổ thơ cuối khi nhà thơ phân tích suy ngẫm về cuộc đời của bà.
Bà luôn quan tâm, chăm sóc, thức khuya dậy sớm để chuẩn bị bữa ăn cho gia đình. Mỗi khi nhớ lại, cháu cảm kích và biết ơn bà:
Bao nắng mưa, bà qua bao đời
Mấy chục năm qua, đến giờ này
Bà vẫn dậy sớm như ngày xưa
Từ ngược 'lận đận' đưa lên đầu câu, kết hợp với cụm từ 'đời bà', 'mấy chục năm rồi', hiện ảnh 'nắng mưa', diễn tả sâu sắc cuộc đời với những khó khăn, gian nan của bà. Đồng thời thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc trong tình cảm của cháu.
Phó từ 'vẫn' khẳng định thói quen không thay đổi của bà 'thói quen dậy sớm' để làm việc nhóm lửa, dạy dỗ niềm tin, tình yêu thương cho cháu. Có thể nói, tình thương mà tác giả dành cho bà được thể hiện rõ trong từng câu chữ. Tình cảm đó chân thành, sâu nặng, thiết tha.
Bà không chỉ làm việc nhóm lửa bằng đôi tay khỏe mạnh mà còn bằng tấm lòng đầy nhân ái đối với con cháu:
Nhóm bếp lửa ấm áp nồng nàn
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ niềm vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ
Sử dụng điệp ngữ 'nhóm' 4 lần mang đến nhiều cảm xúc: 'Nhóm bếp lửa', 'nhóm nồi xôi gạo' là hình ảnh thực tế về công việc nhóm lửa của bà. 'Nhóm niềm yêu thương', 'nhóm dậy cả những tâm tình' là hình ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý: bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh niềm yêu thương, chia sẻ.
Từ đó, trong suy nghĩ sâu xa, nhà thơ tự nhiên và hợp lý khái quát: “Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa”. Bởi vì bếp lửa dù giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng cũng vô cùng cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu.
Cảm xúc của nhà thơ dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tóm tắt để ngợi ca, khẳng định về bà: bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm sóc cho mọi người.
Bốn câu cuối thể hiện một cách đầy cảm xúc tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã xa xôi:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Dấu chấm giữa dòng thơ ngắt câu thành hai câu tự sự để gợi sự trôi chảy của thời gian, sự biến đổi của không gian và vẽ lên một hiện tại: người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, bay xa, làm quen với những chân trời rộng lớn.
Từ 'trăm' mở ra một thế giới phong phú với nhiều điều mới mẻ. Sự kết hợp của từ 'có' với cách diễn đạt tinh tế và câu hỏi tu từ cuối câu thể hiện rằng người cháu đã trải qua nhiều thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm thấy niềm vui mới, khẳng định rằng đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, ngọn lửa ấy đã trở thành ký niệm, niềm tin dẫn lối người cháu trên hành trình dài.
Tình yêu và sự trân trọng đối với bà đã trở thành một phần không thể thiếu trong gia đình, cũng như niềm nhớ về quê hương, đất nước và lòng biết ơn sâu sắc của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở ấy. 'Bếp lửa' thực sự trở thành kỷ niệm ấm áp, niềm tin thiêng liêng kỳ diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Bằng biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ và từ ngữ tinh tế, hình ảnh được chọn lọc, hai khổ thơ cuối của bài 'Bếp lửa' đã giúp người đọc cảm nhận được toàn bộ suy tư của cháu về cuộc đời bà để từ đó thể hiện nỗi nhớ thương bà sâu sắc. Đọc những vần thơ ấy, ta nhận ra trong nhà thơ Bằng Việt là tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng biết ơn vô hạn đối với bà và cũng là đối với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.
Qua những hồi ức của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỷ niệm đầy xúc động về bà và bếp lửa, nhà thơ đã thể hiện những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc đối với gia đình, quê hương và đất nước. Khổ thơ chứa đựng triết lý 'uống nước nhớ nguồn', là nguồn cảm hứng cao quý cho mỗi người Việt. Triết lý ấy được nuôi dưỡng trong từng tâm hồn con người từ thuở thơ ấu, để rồi giúp họ bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.
Đoạn văn phân tích 2 khổ cuối Bếp lửa
Hai khổ thơ cuối của 'Bếp lửa' đã cho độc giả thấy cái nhìn chân thực về mối quan hệ ấm áp giữa bà và cháu. Hình ảnh của người bà, đơn giản và chân thành, một lần nữa được nhà thơ vẽ lên với những khó khăn và vất vả. Những từ 'lận đận', 'nắng mưa' cùng với thời gian 'mấy chục năm' giúp ta hiểu sâu hơn về những khó khăn của 'đời bà'. Bất kể gian khổ, bà vẫn dành trọn tình yêu cho đứa cháu nhỏ, sẵn sàng sớm dậy để 'nhóm bếp'. Điều mà bà nhóm lên không chỉ là ngọn lửa ấm áp để nấu 'khoai sắn' hay 'nồi xôi gạo mới'. Đó là tình thương, sự chia sẻ và những ước mơ, những 'tâm tình từ thuở nhỏ' trong lòng người cháu. Khi trưởng thành, người cháu vẫn nhớ mãi về kỷ niệm tuổi thơ bên bà. Dù đã bước ra thế giới bên ngoài, nhưng trong tâm trí, câu hỏi 'Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?' vẫn đầy ý nghĩa và cảm xúc. Thế giới bên ngoài có 'lửa trăm nhà' nhưng không thể làm phai mờ ký ức về ngọn lửa 'nồng đượm', được bàn tay bà 'ấp ủ'. Tác giả đã mang đến cho độc giả những cảm xúc chân thành và gần gũi về tình bà cháu thân thương, giản dị.