Phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ kèm dàn ý và 5 mẫu ở dưới không chỉ mang lại ý tưởng sáng tạo cho bài văn của học sinh lớp 10 mà còn giúp họ hiểu rõ hơn về hoàn cảnh và nội dung của bài thơ. Từ đó, họ có thể đồng cảm với số phận của phụ nữ trong chiến tranh và khát vọng sum họp của họ.
Tám câu thơ đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã thể hiện được tâm trạng của người phụ nữ và khung cảnh đau lòng, cô đơn khi phải sống xa chồng do chiến tranh gây ra. Đây cũng là sự cao quý và nhân văn của tác giả. Dưới đây là 5 bài phân tích 8 câu đầu của bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về tác phẩm.
Phân tích 8 câu đầu của bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Dàn ý
1. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và 8 câu đầu của bài thơ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
2. Nội dung chính
*Hành động của người phụ nữ chinh phụ
- Lang thang dưới hiên vắng, bước chân buồn vương
- Ngồi bên rèm mỏng, nhìn sông thảnh thơi
- Người phụ nữ đi bước, đếm từng bước chân mình, như tính từng ngày xa chồng.
- Bước chân êm đềm, mang theo nỗi lo âu, nhớ nhung cho người thương ở chiến trường.
=> Đó là những bước chân nặng trĩu tâm tư, sự thương nhớ và nỗi xót xa.
- Nàng ngồi bên cửa sổ, thả rèm mỏng như hành động không ý thức, lặp đi lặp lại.
=> Nàng không ý thức được hành động của mình, vì đã chìm đắm trong nỗi lo lắng, nhớ mong cho người chồng ở biên cương chẳng biết khi nào mới trở về.
- Cụm từ “vắng”, “thưa” tạo cảm giác cô đơn, hư không cho không gian, làm sâu thêm nỗi buồn của người phụ nữ.
- Từ ngữ “từng”, “đòi” nhấn mạnh sự lặp lại không ý thức của hành động vô nghĩa của người phụ nữ.
=> Hành động của phụ nữ hiện ra những mối lo âu, nỗi buồn thương và tấm lòng kiên cường mà cô dành cho chồng.
*Bối cảnh bên ngoài: 6 câu tiếp theo
- Chim thước: loài chim thông báo sự trở về của người xa xứ.
- Người phụ đang chờ mong ánh sáng chim thước qua rèm mỏng.
- Nhìn vào hiện thực với những nỗi nhớ mong, sự trông chờ, khát khao ấm áp đều xa xôi, không có phản hồi, phụ nữ càng trở nên thất vọng hơn.
- Đối diện với ánh sáng, người phụ khát khao được yêu thương và chia sẻ, câu hỏi nói nhỏ khi ngồi trước ánh đèn dầu chính là một lời kêu gọi, thể hiện sự buồn rầu, cô đơn xen lẫn với sự tuyệt vọng.
- Hình ảnh của ngọn đèn là một biểu tượng quen thuộc, xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học cổ điển.
- Trong đoạn trích, ngọn đèn được dùng để tượng trưng cho thời gian trôi nhanh, tượng trưng cho sự phai nhạt, tan biến của một cuộc đời.
=> Cuộc sống giống như một lời đòi hỏi của đèn hoa mong manh, chưa được hoàn thành.
*Tâm trạng chờ đợi của người phụ nữ
- Người phụ thức dậy giữa đêm cô đơn bên ánh đèn, đau xót vì hoàn cảnh của mình. Nhưng thời gian trôi qua, đèn cũng không còn sáng, chỉ để lại hình bóng đơn côi của người phụ.
- Cụm từ “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương” thể hiện tâm trạng u uất của phụ nữ:
- Bi thiết bi thương, thảm thiết, là nỗi đau không thể diễn tả bằng lời, là mong muốn được hiểu và chia sẻ nhưng không có ai để chia sẻ.
- Thiết tha là cắt, mài (theo nghĩa Hán Việt): thể hiện nỗi đau ẩn giấu tạo thành vết cắt sâu trong tâm trí.
=> Nỗi đau, nỗi buồn khôn nguôi của cô nàng luôn ẩn mình trong lòng, gây ra sự đau đớn sâu thẳm, khiến trái tim cô đơn trở nên cô đặc hơn mỗi khi nhớ về người thân đang chiến đấu trên chiến trường hiểm nguy.
*Nghệ thuật Trình Bày
- Bút pháp nghệ thuật kết hợp thể thơ song thất lục bát với nhịp thơ chậm rãi đã thể hiện đa dạng mạch cảm xúc của người phụ.
- Đoạn trích sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm trạng qua ngoại cảnh và các tính từ diễn đạt cảm xúc.
=> Tác giả đã thành công trong việc tạo dựng hình ảnh người phụ đầy suy tư, tâm trạng mù mịt, gợi lên sự đồng cảm sâu sắc với những người phụ nữ chờ đợi người chồng tham chiến trong những trận chiến không ý nghĩa (tôn trọng nhân đạo).
3. Phần Kết
Phân tích giá trị của đoạn trích và 8 câu đầu trong 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ'.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu đầu
'Chinh phụ ngâm khúc' bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, một danh sĩ hiếu học, tài ba sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, là một kiệt tác trong văn học cổ điển Việt Nam-đã được tái hiện kỳ diệu qua bản dịch của nữ văn sĩ Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình trong 'Chinh phụ ngâm khúc'. Mỗi câu thơ đều đong đầy tâm trạng nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ, đặc biệt là tám câu đầu của đoạn trích:
'Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. '
Ngôi nhà, căn phòng giờ trở nên u ám, tối tăm, chật chội. Người vợ trẻ dường như đã dành cả buổi đêm để chờ đợi chồng. Nàng luôn đầy khắc khoải, mong chờ chồng, nỗi cô đơn bao trùm nàng:
'Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?'
Nàng dường như đã phủ quên tất cả xung quanh. Cái cảm giác cô đơn, khắc khoải trong tâm hồn đã trỗi dậy, ăn sâu vào nàng và biến thành hình ảnh trong từng dòng thơ, như người mất hồn. Nhịp thơ chậm rãi khiến cảm giác thời gian trôi như chẳng còn. Giữa không gian lặng lẽ, tiếng bước chân gieo vào lòng người âm thanh cô đơn, bất an. Dáng vẻ u uất, tủi nhục, bề ngoài gầy gò chứa đựng sâu sắc nỗi đau trong tim. Nàng cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, thêm vào đó là sự đáng thương. Nàng biết phải làm gì khi mỗi ngày trôi qua, mỗi đêm tàn lại trong nỗi nhớ mong không dứt. Ngồi xuống rồi đứng lên, buồn rầu vơ vẩn, kéo rèm xuống rồi lại kéo lên, chỉ một mình nàng giữa đêm tối. Đã lâu rồi “thước chẳng mách tin” không có một lá thư, không có ai tới thăm nàng.
Nội tâm của nhân vật được lột xác hoàn toàn từ bên ngoài đến bên trong. Sự im lặng đáng sợ là phản ánh cho những ước mong tan vỡ của nàng. Nàng không khóc nhưng chúng ta cảm nhận được dòng lệ không ngừng chảy, biểu hiện cho nỗi buồn sâu kín không lối thoát.
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi thành cơm. ”
Trong cô đơn, người chinh phụ mong ngóng sự đồng cảm và chia sẻ tâm trạng:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. ”
Có ai cho cảnh này cảm thấy bất lực và đơn độc như nàng không? Không ai! Chỉ có một mình nàng trong bóng tối, chỉ có ngọn đèn lẻ loi làm bạn đồng hành. Liệu tác giả có mang ánh sáng của đèn đến để giảm bớt nỗi cô đơn của nàng trong đêm tối hay đó chính là tâm trạng tan nát của nàng? Có lẽ như vậy. Nhưng ta còn thấy gì sau hình ảnh đó? Một chiếc đèn khuya vẫn chiếu sáng lẻ loi của một người con gái giữa đêm tối liệu có làm giảm đi sự cô đơn? Hay nó càng làm sâu sắc hơn nỗi cô đơn ấy. Mô tả về đèn cũng là để diễn đạt không gian mênh mông và sự cô đơn của con người. Biện pháp này khá phổ biến trong thơ xưa, mang tính biểu cảm cao: “Đèn nhớ ai mà không tắt”. Hình ảnh đèn liên tục được nhắc đến trong ba câu thơ là vì vậy. Nhìn ngọn đèn cháy năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương tức tưởi. Thương cho đèn rồi lại thương cho lòng mình bi thiết.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. ”
Về nghệ thuật, với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Về nội dung, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ. Cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Qua đoạn thơ, ta cảm nhận chất nhạc lôi cuốn trong thơ song thất lục bát, khả năng lớn lao của tiếng Việt trên lĩnh vực trữ tình. Đoạn thơ giàu giá trị nhân văn, đã thể hiện sâu sắc và cảm động sự oán ghét chiến tranh phong kiến và niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc trong xã hội cũ.
Phân tích ngắn gọn về 8 câu đầu của bài thơ 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ'
Dưới sự thông thái của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài sắc hiếm có, không gì sánh bằng, độc lập và thông minh” khiến tuyệt phẩm Hán ngôn “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn thêm phần lấp lánh. Trải qua những năm đại họa vào thế kỷ XIV, khi bão táp gió giục, loạn lạc ập đến, những người chinh phụ đưa người thân ra trận… được tái hiện một cách sinh động qua những câu vần thơ “dịu dàng, trang nhã”, đặc biệt là trong đoạn trích 8 câu đầu của “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Mặc dù ngắn gọn, nhưng Đoàn Thị Điểm đã làm bừng sáng hình ảnh của người chinh phụ trong cảnh đơn độc chờ đợi ngày sum vầy.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích là hình ảnh người chinh phụ đang ngóng trông. Điều này được thể hiện qua các động từ “dạo”, “rủ”, “thác”, “gieo từng bước”, tạo nên sự tương phản giữa bên ngoài yên bình, nhàn nhã với nội tâm u sầu, mệt mỏi đếm từng bước chân. Hơn nữa, tính từ “vắng”, “thưa” làm nổi bật sự cô đơn, lẻ loi, bóng chiều của người phụ nữ trong đêm tối. Như vậy, tác giả đã sử dụng cảnh vật để diễn đạt tâm trạng của nhân vật.
Tiếp theo, người chinh phụ dường như hướng ra bên ngoài chờ đợi một tin tức đủ mạnh để an lòng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chim thước là loài chim lạc khách, thường bay lượn trên bầu trời rộng lớn. Hy vọng nghe tin từ chim thước thật vô vọng, mơ hồ. Từ từ phủ định “chẳng” như làm rõ thêm sự tuyệt nhiên không có một âm thanh tin tức nào. Do đó, người phụ nữ hướng tâm trí vào không gian trong trẻo, trò chuyện với ánh đèn, tìm kiếm chút an ủi, giải tỏa sự cô đơn:
“Trong rèm, liệu có đèn hiểu chăng?
Đèn có hiểu, nhưng không hiểu rõ lắm,
Lòng tôi đơn côi, cảm xúc bi thiết mà thôi.
U buồn mà chẳng biết phải nói gì,
Thương cả ánh đèn và bóng dáng đó.”
Đoạn thơ này khiến ta gợi nhớ hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, khi cô chỉ vào bóng tường và gọi đó là cha Đản để làm cho con trai không thêm phần đau khổ. Đó có thể là cách người phụ nữ trao đi nỗi nhớ mong chờ chồng. Bằng cách chia sẻ cảm xúc với ánh đèn, người chinh phụ trong bài thơ có lẽ cũng đang nhớ nhung người yêu dấu. Bởi vì người phụ nữ đã gọi “đèn” và tự xưng là “tôi”. Ngoài ra, hình ảnh của đèn gợi nhớ đến những bài thơ, ca dao cổ truyền:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.”
Ánh đèn như làm tăng thêm cảm giác cô đơn, mệt mỏi, đau đớn, chờ đợi suốt cả ngày và thao thức qua đêm. Nhưng đèn không thể làm gì khác ngoài việc sáng sủa, không thể chia sẻ cảm xúc với người phụ nữ, vì vậy nhân vật trở nên “u buồn” hơn, không thể lên tiếng. Hình ảnh “nói chẳng biết phải nói gì” như là biểu hiện của sự bất lực, uất nghẹn. Đoạn thơ còn xuất hiện hình ảnh của cặp “hoa đèn” và “bóng dáng”. Thay vì đề cập đến đèn, tác giả lại chọn “hoa đèn” để tạo ra hình ảnh của sự phai nhạt, dần mất đi, tương đương với việc người phụ nữ chờ đợi sự tàn phai, tuổi xuân trôi qua từng ngày. Từ những hành động này, ý thơ dường như mô tả sự im lặng, không chuyển động. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bên ánh đèn cũng kết hợp với cảm xúc “bi thiết”, “khá thương”. Nỗi đau buồn, cô đơn, lo lắng, mong chờ, sự bất lực, nỗi buồn rối ren… tất cả như là một dòng chảy, dồn dập từ thương yêu chồng đến lòng thương mình, từ lời thở dài đến sự tuyệt vọng.
Tóm lại, đoạn trích 8 câu đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – Đoàn Thị Điểm là lời than thở đau thương về số phận của phụ nữ trong chiến tranh và sự đồng cảm với mong muốn được bình yên của họ. Cho đến bây giờ, chỉ có lần đầu tiên mới có những tấm lòng chân thành hiểu biết và cảm thông cho những phụ nữ nhỏ bé. Đó cũng là tinh thần nhân văn, nhân đạo cao đẹp của tác giả.
Phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Đặng Trần Côn là một tác giả nổi tiếng với tài năng văn chương vượt trội và nhiều tác phẩm đậm chất thời đại. Trong đó, “Chinh phụ ngâm” nổi tiếng với giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một phần của tác phẩm này, thể hiện nỗi nhớ mong của phụ nữ khi chồng đi chiến trường. Đặc biệt, tám câu thơ đầu tiên của đoạn trích giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình trạng trống trải cùng những biến động tâm trạng của nhân vật trung thành.
Mở đầu đoạn trích là tâm trạng bối rối của người chinh phụ hiện lên qua những hành động không tỉnh táo:
Lang thang trong sân hiên vắng vẻ mênh mang
Ngồi dưới rèm mỏng, ngắm sông rồi lặng lẽ chờ đợi.
Điều này có lẽ là sự than thở dài, đắng cay của người phụ nữ có chồng đang tham chiến ở chiến trường. Tác giả đã dùng cách miêu tả tâm trạng qua bối cảnh bên ngoài để diễn đạt những hành động lặp đi lặp lại mà không mục đích của người chinh phụ. Từ những hành động đó, ta có thể hình dung được dạng vẻ buồn rầu, không lời của người chinh phụ ở hiên vắng chờ đợi chồng trở về từ xa.
Khi đó đã là tối tăm - thời gian buồn bã, u ám nhất của ngày - người chinh phụ lại bước chậm trên sân hiên vắng. Chính không gian, thời gian ấy đã đặc biệt hóa bước chân cô đơn, hoang vắng của người chinh phụ. Trong khi mọi người khác hòa mình trong không gian gia đình sau một ngày dài, người chinh phụ lại cô đơn, không có chồng bên cạnh che chở.
Cảm giác cô đơn dường như vây quanh trái tim người phụ nữ, làm cho bước chân của nàng càng trở nên chậm rãi và mệt mỏi. Mỗi bước đi là một hơi thở dài cho những lo lắng, phiền muộn trong lòng, cho niềm mong chờ tin từ chồng trở về. Nhưng cuối cùng, người chinh phụ chỉ có thể giữ trong lòng nỗi đau vì đáp lại chỉ là tiếng bước chân im lặng của mình.
Hành động mở rèm của người chinh phụ cũng là một hành động lặp đi lặp lại mà không mục đích rõ ràng. Điều này có thể là cách che giấu sự bất lực, nỗi lo lắng của người phụ nữ? Hay là sự kết hợp của nỗi nhớ nhung da diết và lo lắng cho sự an nguy của chồng? Nỗi nhớ da diết cùng mong chờ tin chồng như ánh sáng le lói trong người chinh phụ, làm nổi bật cảm giác cô đơn buồn rầu của nàng. Nhưng cuối cùng, dù mong chờ, hiện thực vẫn là nỗi đau đớn.
“Bên ngoài rèm màn chẳng có tin tức,
Trong lòng thì liệu có ánh sáng?”
Thước là loài chim gửi tin về những người xa xứ. Nhưng lúc này, thước im lặng, khiến lòng người ngóng trông trở nên đau đớn hơn. Người chồng ở xa vẫn chưa trở về, nỗi nhớ của nàng càng thêm sâu sắc. Nàng khao khát được chia sẻ, được đồng cảm. Nhưng trước một bi kịch như thế, có lẽ chỉ có ngọn đèn là bạn đồng hành với nàng.
Sự cô đơn đã khiến nàng tự hỏi, liệu ngọn đèn có hiểu được lòng nàng, có thấu hiểu được sự rối bời, lạnh lẽo của nàng không? Nó chỉ là một vật thể vô tri vô giác, không thể hiểu được tâm can của con người. Dù vậy, nàng vẫn muốn chia sẻ, muốn than thở, muốn hy vọng.
Đèn có hiểu lòng người chăng?
Thiếp cô đơn đến đâu mà đau lòng
Hình ảnh của ngọn đèn được lặp lại hai lần như một cách để thể hiện lòng tâm sự với người chinh phụ. Nhưng một ngọn đèn không thể hiểu được cảm giác cô đơn, buồn bã của nàng. Nàng chỉ có thể giữ trọn trong lòng mình, nhìn ngọn đèn lúc nào cũng đang leo lét trong bóng đêm tĩnh lặng.
'Buồn lòng mà chẳng biết nói,
Ngọn đèn kia, người yêu ơi thương hoài!”
Người chinh phụ buồn đau, không biết nói điều gì, không muốn cười. Cô ấy chỉ còn hoa đèn bên cạnh, cô đơn đến đáng thương.
Hoa đèn là hình ảnh cuối cùng của những câu thơ đầu tiên. Nó như đầu bấc đèn dầu đã cháy, nhưng được nung đỏ lên trông giống như hoa, giống như tâm trạng của cô ấy đang cháy rực như hoa đèn. Trong bóng đêm tĩnh mịch, cô ấy chỉ có thể tâm sự, trò chuyện với đèn và với bóng của mình. Cô ấy phải cô đơn và đau đớn đến mức nào mới tìm đến những thứ vô tri vô giác để trút bầu tâm tư?
Tác giả đã thông qua cách diễn đạt tài tình và nghệ thuật, kết hợp thơ và văn một cách tinh tế. Nhịp điệu chậm rãi mô tả được tâm trạng và cảm xúc phong phú của người chinh phụ. Từ đó, nỗi cô đơn và nhớ nhung chồng đã trỗi dậy mạnh mẽ, khao khát hạnh phúc bên người thương.
Đoạn trích mang lại giá trị nhân văn cao đẹp, lên án cuộc chiến tranh vô lý và những quy định nặng nề của xã hội đã cướp đi hạnh phúc của nhiều người phụ nữ.
Phân tích tình cảnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu đầu.
Tình yêu luôn là đề tài không bao giờ cũ trong văn học và là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ. Trong thời chiến, tình yêu không còn ngọt ngào thơ mộng mà thay vào đó là sự chờ đợi mỏi mòn và đau khổ của sự chia xa. Trong thời Đường, Vương Xương Linh đã cảm thông và viết ra những bài thơ xúc động về tâm trạng của người phụ nữ đợi chờ chồng trở về từ chiến trường.
'Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu, Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu. Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao phu tế mịch phong hầu' (Khuê oán - Vương Xương Linh)
(Khuê oán - Vương Xương Linh)
Trong thời Lê, Đặng Trần Côn đã cảm thông sâu sắc với số phận của những người phụ nữ có chồng đi lính qua tác phẩm 'Chinh phụ ngâm'. Đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' đã động đến tận sâu trong lòng người đọc khi mô tả cảnh tượng cô đơn và nỗi nhớ thương của người phụ nữ khi chồng ra trận.
'Chinh phụ ngâm' xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu thời Lê Hiển Tông, trong thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa liên tục và triều đình điều binh lính dập tắt cuộc nổi loạn. Điều này làm nhiều gia đình phải chia ly, vợ mất chồng, mẹ mất con. Số phận của những người dân nhỏ bé trong xã hội phong kiến đang chứng kiến bi kịch ấy đã làm xúc động Đặng Trần Côn.
Sau khi chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ trong căn phòng vắng vẻ, lạnh lẽo, nỗi đau lòng của nàng hiện hình qua hành động và không gian xung quanh.
'Dạo hiên vắng, ngồi rèm thưa, rủ thác đòi phen.'
Không gian 'hiên vắng', 'ngoài rèm', 'trong rèm' là nơi cô đơn, vắng vẻ, chỉ còn lại tiếng bước chân lẻ loi vang vọng. Đây là không gian nghệ thuật thể hiện tâm trạng của người chinh phụ, để giãi bày nỗi lòng và tô đậm sự cô đơn của nàng.
'Hiên vắng' bởi vắng bóng người quan trọng nhất bên cạnh. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ hiện rõ qua mỗi bước chân. Cô dạo bước, thầm đếm từng bước, như đếm từng ngày chồng đi xa.
Qua 8 câu thơ đầu, ta thấy nỗi u sầu, thương nhớ trong những bước chân lặng lẽ của nàng, giống như người cung nữ trong 'Cung oán ngâm' của Nguyễn Gia Thiều: 'Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ'. Những hành động lặp đi lặp lại, nhưng không có ý nghĩa, thể hiện sự khắc khoải, mong chờ của nàng về người chồng đang ở xa.
'Ngoài rèm thước im lặng, Trong rèm liệu có đèn hiểu lòng?'
Không gian ngày càng hẹp lại. Đối với nàng, không gian hiện tại chỉ tồn tại qua tấm rèm 'trong rèm', 'ngoài rèm'. Không gian thu hẹp càng khiến tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trở nên sâu sắc hơn. Nàng mong muốn được đồng cảm, sẻ chia, mong tin chim thước mang tin chồng trở về, nhưng không biết chim thước có đến không. Nàng hy vọng ngọn đèn sẽ hiểu và soi sáng nỗi lòng của mình, nhưng đèn lại lạnh lùng, không thể chia sẻ nỗi buồn cô đơn của nàng.
Nàng nhận ra rằng hy vọng càng lớn, nỗi buồn càng sâu. Mong muốn được sum vầy, đoàn tụ, hơi ấm của gia đình khiến nàng càng đau lòng. Sự lặp lại của từ 'rèm' trong câu thơ đẩy nàng vào tình trạng bế tắc, giống như tình hình xã hội suy tàn, triều đình hỗn loạn khiến niềm tin vào tình yêu, hạnh phúc trở nên mờ nhạt. Phân tích 8 câu đầu của bài viết về tình cảnh cô đơn của người chinh phụ khiến ta cảm thông và đau lòng về số phận và tâm trạng chờ đợi của những người phụ nữ xưa.
Người chinh phụ mong ngày qua, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn bao phủ, nàng chỉ có bóng đèn làm bạn. Tuy nhiên, ngay sau đó, nàng phủ nhận điều đó:
'Đèn có hiểu lòng người chăng, Lòng thiếp biết mà thôi.'
'Với đèn lạnh lùng chỉ có thể soi sáng bóng dáng cô đơn của nàng, nhưng không thể chia sẻ. Tấm lòng này chỉ một mình biết, một mình hiểu. Trong việc cảm nhận 8 câu đầu của bài viết về tình cảnh cô đơn của người chinh phụ, chúng ta nhận thấy từ 'bi thiết' là một cách mạnh mẽ miêu tả cảm giác cô đơn và mong muốn được đồng cảm của chinh phụ trong đêm tối.
Điều từ 'đèn có biết' trong điệp ngữ bắc cầu đã cho thấy sự gia tăng của nỗi nhớ trong nàng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi bật sự cô đơn và khát khao chia sẻ của nàng mà còn là minh chứng cho việc nàng đã thao thức suốt đêm dài. Đặng Trần Côn sử dụng cây đèn đang tàn để ám chỉ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi của cuộc sống con người. Khi cảm nhận 8 câu đầu của bài viết về tình cảnh cô đơn của người chinh phụ, ta nhớ đến ngọn đèn và nỗi nhớ tình yêu trong bài ca dao 'Khăn thương nhớ ai'.
'Đèn thương nhớ ai, Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên, Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề' (Ca dao)
(Ca dao)
Hình ảnh ngọn đèn trong bài ca dao cũng nói về nỗi nhớ của cô gái trong tình yêu và những lo lắng về tương lai. Tuy nhiên, nỗi lo của người chinh phụ không chỉ đơn giản là về tương lai mà còn là sự chia ly và hy vọng về việc chia sẻ được nỗi đau của mình. Nhưng thực tế là không ai có thể chia sẻ và đồng cảm với nàng. Nỗi nhớ ngày càng tăng lên và nàng càng trở nên cô đơn hơn...
'Buồn rầu không lời, Hoa đèn và bóng người thương'
'Từ thuần Việt 'buồn rầu' diễn tả chân thật nỗi buồn của người chinh phụ. 'Nói chẳng nên lời' vì nỗi buồn không thể diễn tả được hay vì nói ra cũng chẳng ai chia sẻ. Nàng giờ đây cô đơn không chỉ trong không gian mà còn trong tâm hồn. Khi cảm nhận 8 câu đầu của bài viết về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, người đọc cảm nhận được đêm đã gần tàn, người chinh phụ đã ngồi trước bóng đèn đó rất lâu. Nỗi nhớ trào dâng như tâm trạng của những cô gái trong ca dao:
'Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai' (Ca dao)
(Ca dao)
'Hoặc những câu ca dao khác:'
'Nhớ ai bổi bồi như đứng lửa, như ngồi than.'
(Ca dao)
'Với cô gái trong ca dao, đó là nỗi nhớ tương tư khao khát gặp gỡ trong tình yêu. Nhưng đối với người chinh phụ, nỗi nhớ không chỉ là tương tư mà còn là sự lo lắng, bất an cho người chồng. Trong thời loạn lạc, khi người nhà đi lính, việc nhận được tin tức về chiến trận thường rất hiếm hoi.'
'Như câu 'Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?', không nghe tin từ chồng, nàng chỉ biết đợi chờ trong lo lắng. Nỗi buồn trong lòng nàng dần chết đi từ sự chờ đợi, sự tương tư trong cô đơn và lo âu. 'Bóng người' ở đây có thể là hình ảnh người chinh phụ chờ đợi và nhớ thương chồng, hoặc là hình ảnh của chính người chinh phụ héo hon, tàn tạ chờ đợi chồng trở về, như một cái bóng mỏi mòn, hoặc hoa héo tàn.'
'Người về, bóng năm canh; Kẻ đi, một mình xa xôi.'
'(Truyện Kiều – Nguyễn Du)'
'Như thế, các yếu tố bên ngoài đã thể hiện rõ nỗi lòng đau đớn của người phụ nữ, người luôn trông chờ chồng đi chiến trận. Ngọn đèn tắt, để lại người phụ nữ cô đơn trong đêm dài u ám buồn bã. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian, luôn ám ảnh nàng. Cảnh vật xung quanh không chia sẻ mà ngược lại càng làm nỗi buồn miên man của người phụ nữ trở nên cảm nhạy, khiến nàng càng đau khổ, buồn rầu hơn. Có thể thấy rằng, khi cảm nhận 8 câu đầu bài 'Tình cảnh lẻ loi' của người phụ nữ, ta cũng hiểu được số phận cùng nỗi cô đơn đến tận cùng của những người phụ nữ...'
'Văn học là người bạn trung thành của trái tim. Chỉ với 8 câu đầu, tác phẩm đã chạm vào trái tim của người đọc, gieo vào đó những cảm xúc sâu lắng về nỗi buồn, sự cô đơn của người phụ nữ trong cuộc chờ đợi mỏi mòn. Điều đó cho thấy tâm hồn nhân đạo của nghệ sĩ văn học. Điều đó đã giúp tác phẩm sống động. Và 'Chinh phụ ngâm' xứng đáng với lời nhận xét: 'Thời gian có thể làm phai nhạt một số thứ. Nhưng cũng có những thứ càng xa xôi thời gian, càng tỏa sáng, càng tuyệt vời' (Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên).'
'Phân tích 8 câu đầu bài 'Tình cảnh lẻ loi''
'Đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi' của người phụ nữ trong 'Chinh phụ ngâm' của Đặng Trần Côn là một bức tranh thơ đẹp thuộc thể loại ngâm khúc, nổi bật với tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người phụ nữ trong 8 câu thơ đầu tiên'
'Hai dòng thơ đầu, Đặng Trần Côn đã thể hiện tâm trạng của người phụ nữ bằng những hình tượng sinh động:'
'Trên hiên vắng, từng bước âm thầm,
Ngồi sau rèm, chờ đợi trầm lặng'
'Tiếng oán trách đầy buồn bã của người phụ nữ khi chồng phải ra chiến trận, việc 'từng bước', 'rèm thưa rủ' đều là biểu hiện của tâm trạng cô đơn, nỗi nhớ chồng trong người phụ nữ. Buổi chiều tà, với hiên nhà vắng vẻ, hành động 'từng bước' lặp đi lặp lại như muốn nói lên sự chờ đợi, trống vắng của người phụ nữ xa chồng. Hành động này như biểu hiện sự mong chờ, nỗi lòng nặng trĩu của người phụ nữ.
''Ngồi sau rèm, chờ đợi trong bóng tối' việc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm trạng buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an, lo lắng cho người chồng bên ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ, vừa là sự dồn nén cảm xúc của người phụ nữ, khiến cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng chờ nhiều hơn, nhưng:
'Ngoài rèm, không có tin tức gì'
'Đợi chờ nhưng không thấy tin tức? Con chim 'thước' thường là dấu hiệu của điềm báo tốt, biểu thị sẽ có người đi xa quay về. Nhưng không thấy bóng dáng của chim thước để mang tin tức, nỗi nhớ đầy rẫy và đau đớn, sự mong chờ một tín hiệu dù nhỏ nhưng không thấy, tất cả làm nỗi buồn của người phụ nữ càng trở nên sâu sắc hơn. Trong cảnh đau buồn này, chỉ có ngọn đèn le lói làm bạn với nàng.
'Trong rèm có đèn soi sáng, không chứ?'
Sự cô đơn đến tận cùng đã khiến người phụ nữ phải tự hỏi 'Trong rèm có đèn soi sáng, không chứ?' Ngọn đèn có thể chiếu sáng cho nỗi lòng của nàng không? Có thể làm rõ sự nhớ nhung mà nàng dành cho chồng không? Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục diễn tả sự phiền muộn của người phụ nữ:
'Đèn có thể biết hay không cũng chẳng quan trọng
Tâm hồn riêng của em đau đớn mà thôi'
Tác giả sử dụng câu 'Đèn có biết hay không biết' làm tăng thêm sự kéo dài và triền miên của cảnh cô đơn. Hình ảnh của ngọn đèn được lặp lại như một lời trò chuyện của nhân vật trữ tình, ngọn đèn là một vật thể vô tri không thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có thể làm dịu đi nỗi buồn của người phụ nữ. Nhìn ngọn đèn yếu ớt trong đêm tối làm tăng thêm sự ưu phiền. Ngọn đèn sáng rọi thể hiện một sự đối lập với cảnh cô đơn và buồn rầu.
“Buồn rầu khôn cùng, lòng nào diễn tả được?
Hoa đèn đây, bóng người ở đó, vẫn thương nhớ”
Câu thơ cuối cùng là hình ảnh hoa đèn, thế là nỗi nhớ nhung vẫn cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa.
Trong bóng tối mịt mùng, người phụ nữ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn, nỗi nhớ chồng da diết mà thôi
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm người đọc thấu hiểu tâm trạng của người phụ nữ, cùng với khung cảnh hiu quạnh, cô đơn khi phải xa chồng, tất cả do chiến tranh khiến những đôi vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tình tiết đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người phụ nữ chờ tin từ người chồng đi xa.