Vũ Như Tô, tương tự như Hamlet, Coriolanus, vua Lia (Lear), không phải là người đạo đức theo quan điểm thông thường. Người đạo đức, nhân cách tốt là những người hiền lành, nhân từ hay yếu đuối, và sự yếu đuối là 'đối diện' với nhân vật bi kịch. Người hiền lành yếu đuối, chịu đựng mọi đau khổ, than khóc dưới những gì số phận đẩy đưa là đối tượng của kịch melodrama ở châu Âu, cải lương ở Việt Nam. Vũ Như Tô, nhân vật bi kịch, tự mình nổi dậy chống lại số phận, không chờ đợi số phận đánh mình, thách thức số phận xây dựng Cửu Trùng Đài.
Nguyên nhân, động lực của tính chủ động mạnh mẽ ấy ở nhân vật bi kịch là đam mê, trong trường hợp của Vũ Như Tô là đam mê sáng tạo. Đam mê ấy như một viên thuốc nổ, như một viên nén xăng sẵn sàng nổ cháy trong nhân vật bi kịch, chỉ cần được kích hoạt để bùng nổ. Trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, người kích hoạt đam mê trong Vũ Như Tô là Đan Thiềm (điểm nhấn của kịch). Không phải Đan Thiềm thuyết phục hoặc lôi kéo Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, khao khát xây dựng Cửu Trùng Đài đã đầy trong Vũ Như Tô, chỉ cần một lời khích lệ từ bên ngoài là nó biến thành hành động. Bản đồ Cửu Trùng Đài đã được vẽ trước, mọi tính toán kinh tế – kỹ thuật đã được thực hiện trước khi kiến trúc sư thiên tài gặp phụ nữ có tâm hồn. Mối băn khoăn về lương tâm của người quân tử (hiện tại gọi là lương tâm công dân) về việc phục vụ cho lãnh chúa bạo ngược, đi ngược lại lợi ích của quần chúng, mà chính Vũ Như Tô và gia đình, bạn bè của anh là thành phần, được giải quyết rất dễ dàng mà không làm giảm tính thuyết phục nghệ thuật của nhân vật và cả tác phẩm. Từ thời điểm đó, ngọn lửa đam mê cứ tiếp tục bùng cháy, càng gặp khó khăn càng bùng cháy cao hơn. Vũ Như Tô, với sự hỗ trợ của Lê Tương Dực quyết đoán, hành động mạnh mẽ và quyết liệt, lo sợ công trình của mình sẽ không hoàn thành. Trong sử thi, Cửu Trùng Đài được xây dựng từ năm này qua năm khác, thời gian của câu chuyện được rút ngắn chỉ trong khoảng 10 tháng. Người thợ xây có uy tín trong xã hội không ngần ngại giết hết tất cả những kẻ chống đối dự án của họ. Trong họ, không có chỗ cho những nỗi lo lắng về giá trị mà nhân dân phải trả cho tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo của họ. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tính mạng phải hy sinh, tất cả đều là đáng giá trong mắt của nghệ sĩ bị ám ảnh bởi ý tưởng lý tưởng của mình. Một trong những cảnh đẹp nhất (mảng 4, đoạn 1): Vũ Như Tô gặp gỡ vợ lần cuối cùng, Thị Nhiên kể cho chồng về cảnh đói kém, họa miệng lớn lên như cỏ dại ở quê nhà, con cái ốm yếu không được chăm sóc… Họ Vũ, đã mất tập trung vì những lời kể đó, tâm trí họ bị thu hút hoàn toàn bởi Cửu Trùng Đài lộng lẫy. “Khi con người ở trong nghệ thuật, nó vắng mặt trong cuộc sống, và ngược lại”(6) – đó là trạng thái của bi kịch (theo nghĩa triết học) mà chúng ta thấy trong cuộc sống hàng ngày, được phản ánh trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng. Đối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài quan trọng hơn cả cuộc sống của chính mình, điều đó thật đáng yêu và đáng kinh ngạc. Nhưng Cửu Trùng Đài cũng quan trọng hơn hạnh phúc và sự sống của hàng trăm, hàng nghìn người khác, điều đó lại là đáng sợ. Việc theo đuổi vẻ đẹp tinh khiết, biến nó không chỉ thành giá trị cá nhân, mà còn thành một thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước loài người, trước cuộc sống. Sự chết của Vũ Như Tô, từ một góc độ nhất định, là hợp lý, là xứng đáng. Đó là cái chết để chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không nhận ra điều đó.
Trong lý thuyết bi kịch, tội lỗi bi kịch đóng vai trò quan trọng như một yếu tố cốt lõi. Không có tội lỗi bi kịch, cũng như không có xung đột bi kịch, thì không có tác phẩm bi kịch. Tuy nhiên, tội lỗi bi kịch khác với các loại tội lỗi khác ở điểm nào? Hơn hai ngàn năm sau khi Aristoteles viết về lý thuyết bi kịch của mình, nhà triết học và nhà văn người Đan Mạch, hiện diện chủ nghĩa tiền khu Kierkegaard, khẳng định: “Nếu con người hoàn toàn trong sạch, bi kịch sẽ mất hết sự hấp dẫn, bởi vì sẽ mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; ngược lại, nếu nhân vật tự nó không có tội lỗi gì cả, thì sẽ không khiến ta quan tâm, xét từ góc độ bi kịch”(7). Điều này có nghĩa là nhân vật bi kịch phải vừa có tội, vừa không có tội (điều này là điểm khác biệt giữa bi kịch và kịch anh hùng, trong đó nhân vật anh hùng thường tốt đẹp một cách tuyệt đối đấu tranh với những nhân vật ác ôn, như trong tuồng, trong đó những nhân vật anh hùng luôn tốt bụng trăm phần trăm đấu tranh với những nhân vật ác ôn trăm phần trăm). Các nhân vật bi kịch tiêu biểu trên sân khấu (và sau này trong tiểu thuyết) thế giới đều là như vậy. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, như chúng tôi đã cố gắng chứng minh, cũng là nhân vật như thế, vừa có tội, mà tội lớn, lại vừa không có tội, hoặc như một trong những nhà phê bình đầu tiên nói về tác phẩm này theo cách nói điển hình Việt Nam, “có chỗ đáng trách, có điều đáng đau lòng”(8). Do đó, không có gì lạ khi, sau khi viết xong vở kịch, tác giả cảm thấy cần phải viết thêm vài dòng trong phần Mở đầu nổi tiếng, trong đó nhắc lại hai lần: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải chịu tội hay những kẻ giết Như Tô phải?” Câu hỏi này, theo chúng tôi, không phản ánh sự hạn chế về tư duy của tác giả, mà thể hiện rằng tác giả, chỉ bằng trực giác sáng tạo, cảm nhận rõ ràng bản chất bi kịch của tác phẩm của mình. Bi kịch, thể loại văn học và sân khấu lớn, luôn đặt độc giả và khán giả trước những câu hỏi vô cùng phức tạp, khó khăn và đau đầu của cuộc sống. Những câu hỏi này không mong chờ những giải đáp nhanh chóng, dễ dàng, đơn giản. Do đó, chúng tôi cũng nghĩ không nên gọi tội của nhân vật này là “tội thiêng liêng”(9) chỉ vì cảm thông và yêu quý Vũ Như Tô. Từ “thiêng liêng” trong đó mất đi ý nghĩa, trong khi bản chất của tội ở nhân vật vừa đáng yêu, vừa đáng sợ này không được diễn đạt.
Để làm rõ hơn về tội lỗi bi kịch của Vũ Như Tô, hãy đi sâu hơn vào lịch sử của khái niệm này. Bi kịch, như chúng tôi biết, bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại và liên quan mật thiết với tôn giáo và triết học của dân tộc này. Người Hy Lạp thờ nhiều thần linh, mỗi thần đại diện cho một sức mạnh cụ thể nào đó. Tôn giáo Hy Lạp yêu cầu tôn trọng tất cả các thần, không được khinh rẻ một thần nào. Trong bi kịch nổi tiếng Hippolyte của Euripide, chàng trai Hippolyte, vì chỉ tôn thờ thần trinh nữ Artemis và khinh rẻ nữ thần Aphrodite mà bị Aphrodite trừng phạt, truyền cho Phèdre, mẹ kế của Hippolyte, tình yêu điên cuồng đối với chàng; tình yêu ấy cuối cùng đã giết chết Hippolyte. Tội lỗi bi kịch của Hippolyte là đã yêu mến quá mức một Artemis (sự trinh tiết) và khinh rẻ quá nhiều một Aphrodite (tình yêu). Nếu dịch sang ngôn ngữ của xã hội hiện đại, thì Hippolyte đã đặt quá nhiều trọng tâm vào một giá trị nhân sinh và coi thường quá nhiều giá trị khác. Đây là một trong những loại lầm lỗi cơ bản của con người và loài người, trong văn học được thể hiện bằng phạm trù tội lỗi bi kịch(10). Mọi say mê của con người, đặc biệt là những say mê đúng đắn, cao quý, giàu tính nhân văn, càng mãnh liệt thì càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Có thể tranh luận xem điều này có phải là do bản tính bất hoàn hảo không thể thay đổi của con người hay không (kết quả của “tội lỗi tổ tông”, theo tư duy thần học), nhưng rõ ràng lỗi lầm bi kịch là một hiện tượng phổ biến, là một phần của bản tính con người. Lỗi của Vũ Như Tô trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng cũng chính là như vậy. Chàng rất cao thượng trong ước mơ và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã quá tôn trọng cái Đẹp nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân theo chỉ một mệnh lệnh của cái Đẹp và lạnh lùng với mệnh lệnh của cái Thiện. Đây chính là cốt lõi của tội lỗi bi kịch của nhân vật anh hùng này.
Trong Nhật ký tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta tìm thấy một ý kỳ lạ, được ghi lại vào ngày 23-2-1932, khi nhà văn trẻ chưa đầy hai mươi tuổi; ý này như là dấu hiệu cho thấy điểm rối rắm trong các vấn đề triết học của kịch Vũ Như Tô: “Cái đẹp đến từ sự bất bình đẳng giai cấp, cái hạnh phúc đến từ sự bình đẳng giai cấp”(11). “Cái hạnh phúc” ở đây có thể hiểu là hạnh phúc tổng thể, mà hạnh phúc này chỉ có thể đạt được khi thực hiện bình đẳng giai cấp – một nguyên tắc cơ bản của cái Thiện. Nhưng khi tuân theo cái Thiện, lại đồng nghĩa với việc từ bỏ cái Đẹp liên quan đến bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp (ý tưởng này khá sâu sắc, chúng tôi sẽ quay lại sau). Phải chọn một trong hai, và Vũ Như Tô, nhân vật ra đời mười năm sau những dòng viết trên, đã quyết đoán và mạnh mẽ chọn cái Đẹp.
Cho đến bây giờ, chúng tôi chỉ nói về lỗi lầm của nhân vật chính (protagonist), nhưng trong bi kịch còn có nhân vật đối địch (antagonist) – cả quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân cụ thể, không trừu tượng, trong lịch sử và trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã chọn không tuân theo một cái Thiện như họ hiểu nó, và họ chà đạp, hạ nhục cái Ðẹp mà không có sự thương tiếc. Nhân vật đối địch tập thể, giống như nhân vật chính, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch thực sự, không có ai chiến thắng. Điều quan trọng là ở chỗ này.
Ai cũng biết giới thuyết của Aristoteles về tác động tâm lý của bi kịch: Nó gây ra sự sợ hãi và xót xa. Nhưng điều đó chưa đủ và không phải là chính điều. Hành động bi kịch phải dẫn đến sự thanh tẩy (catharsis) của những cảm xúc ấy. Sự thanh tẩy này đạt được thông qua sự nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của những khổ đau bất hạnh mà các nhân vật đã trải qua. Điều này là một điểm khác biệt quan trọng giữa bi kịch và melodrama hoặc cải lương. Trong những thể loại này, hiệu ứng xót xa đến mức làm người ta rơi nước mắt hoặc ngất xỉu là điều phổ biến và đủ hiệu quả. Vũ Như Tô, một tác phẩm bi kịch, không khiến chúng ta rơi nước mắt, nhưng nó thúc đẩy chúng ta suy ngẫm về sâu sắc của những gì chúng ta đã trải qua (trên sân khấu hoặc trong trang văn). Đó là hiệu ứng catharsis chậm.
Có những tác phẩm bi kịch giúp độc giả hoặc khán giả trải qua catharsis bằng cách để cho các nhân vật, trong điểm tháo nút, tự nhận ra ý nghĩa của những gì đã xảy ra (ví dụ, Oedipe trở thành vua hoặc Othello). Nhưng hầu hết các tác phẩm bi kịch đặt nhiệm vụ này vào vai trò của người đọc hoặc người xem. Vũ Như Tô thuộc loại thứ hai. Cho đến khi chết, nhân vật chính vẫn tin rằng mình là người duy nhất sở hữu chân lý và sự công bằng, trong khi toàn bộ trách nhiệm của các vụ hỏa thiêu Cửu Trùng Ðài thuộc về “bè lũ tàn phá” đã gây ra. Trong khi đó, quần chúng, những người nổi loạn, chỉ biết mừng rỡ vì đã loại bỏ nguyên nhân trực tiếp của thảm họa của họ. Nhưng toàn bộ bi kịch làm chúng ta, sau những cảnh xúc động mạnh mẽ, suy ngẫm sâu về nhiều khía cạnh, cố gắng tìm kiếm catharsis không thể thiếu. Xin trình bày một số hướng suy ngẫm cá nhân, mong được trao đổi với các đồng nghiệp.
Chúng ta, con người, luôn bị lạc lối trong hành động và tư duy. Ðặt cái Chân, cái Thiện, cái Ðẹp lên cao nhất như những giá trị của nhân sinh (trong thực tế, còn có nhiều giá trị tuyệt đối khác: Cái Thiêng, Tình yêu, Tự do…), chúng ta, bị thúc đẩy bởi thực tế xã hội và bị chi phối bởi kiểu tư duy trừu tượng hóa, cá nhân hóa chứ không phải toàn cầu hóa, ngày càng chiếm ưu thế trong cuộc sống tinh thần của loài người, dễ dàng coi những giá trị đó như những thực thể độc lập, có thể tồn tại một mình, mà không cần cái kia. Từ đó, ta dễ dàng hy sinh, dễ dàng thay đổi giá trị này cho giá trị kia. Trong cuộc sống lý tưởng, nơi mọi giá trị phải tồn tại một cách hoàn hảo, không lấn át nhau mà đồng thời nâng đỡ, bổ sung và hòa hợp với nhau. Bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về mối nguy hiểm của việc tách rời và đối lập giữa các giá trị. Nó thuyết phục chứng minh rằng việc tự tử của cái Ðẹp, khi nó nhảy múa trên cơ thể đau đớn của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp vì cái Thiện cũng là giết luôn cả cái Thiện.
Trên đây chúng tôi vừa trình bày một tư tưởng tổng kết súc tích của Nguyễn Huy Tưởng: “Cái đẹp bắt nguồn từ sự bất bình đẳng giai cấp…” Như chúng tôi hiểu, ý tác giả muốn nhấn mạnh, cái đẹp nhân tạo (không phải cái đẹp tự nhiên) xuất phát từ một xã hội đầy bất công và luôn phục vụ cho những tầng lớp thống trị, bị chúng chiếm đoạt. Đây là một mâu thuẫn cơ bản và bi kịch của văn minh nhân loại, và kịch Vũ Như Tô phản ánh một cách rõ ràng mâu thuẫn đó. Mâu thuẫn này đôi khi trở nên gay gắt đến mức một tài năng sáng tạo thật sự hiếm có như L. Tolstoi (mà Nguyễn Huy Tưởng rất ngưỡng mộ), đã quyết định từ chối cả cái Đẹp lẫn toàn bộ văn hóa, văn minh, kêu gọi con người quay về với cuộc sống tự nhiên, giản dị của những người nông dân làm ruộng chân lấm tay bùn – cuộc sống mà trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Thị Nhiên (một tên của nữ nhân vật này đã thực sự sáng tạo!) kêu gọi Vũ Như Tô trở về. Nhưng loài người đã không lắng nghe một trong những người thầy đáng kính và đáng yêu nhất của mình. (Có thể một phần là vì thầy này, cũng như nhiều thầy lớn khác, muốn trở thành người thầy duy nhất). Họ không từ chối những giá trị cao cả chỉ vì chúng đang bị một số ít không xứng đáng sở hữu, để thỏa mãn những giá trị sơ đẳng, phổ biến với đa số. Bởi vì hàng trăm, hàng nghìn nhà làng mà Thị Nhiên đề cập không thể thay thế cho một Cửu Trùng Ðài. Nhưng mối quan hệ giữa những giá trị cao cả và sơ đẳng trong văn hóa là tương hỗ, nuôi dưỡng lẫn nhau. Không có những giá trị cao cả, những giá trị sơ đẳng càng trở nên cồng kềnh. Nhưng nếu cắt đứt mối quan hệ với những giá trị sơ đẳng (“tự nhiên” hoặc “đất” của văn hóa), những giá trị cao cả tự làm mất đi bản thân. Bệnh Ðan Thiềm trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng (không phải trong lời Ðề tựa!) là bệnh khao khát và quý giá chỉ về một cái đẹp cao cả. Điều đó có thể làm châm chước cho nàng, nhưng nếu Vũ chỉ mê mải Ðan Thiềm và quên hoàn toàn Thị Nhiên, tài năng của chàng sẽ bị kiệt.
Một trong những tác động tâm lý quan trọng khác của bi kịch là sự tiếc nuối. Bi kịch không phải được viết để mang lại niềm vui sống hoặc sự an ủi trong nỗi đau khổ, có các thể loại khác phục vụ cho những nhu cầu đó. Bi kịch khiến chúng ta lo lắng về số phận của những giá trị lớn của xã hội và con người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như vậy. Trong lý thuyết giá trị, ta phân biệt giữa cấp và sức mạnh của giá trị, và có thể có sự vênh lên giữa chúng. Những giá trị ở cấp thấp thường có sức mạnh lớn (như sự tồn tại vật chất hoặc những lợi ích vật chất). Khi đi lên cao, các giá trị trở nên dễ yếu đi (không nhất thiết!) và thường trở nên không đáng tin cậy. Đó cũng là nghịch lý của xã hội con người. Kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về nghịch lý tồn tại đó. Những giá trị cao cần tự bảo tồn và tỏa sáng mà không được phủ nhận những giá trị thấp hơn, nhưng phải liên kết với chúng mà vẫn giữ vững bản thân. Đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng tương lai của nền văn minh con người phụ thuộc vào việc giải quyết nhiệm vụ này.
Và cuối cùng, hãy quay trở lại với thắc mắc được đặt ra trong lời Đề tựa của vở kịch. “Liệu Vũ Như Tô cần phải hồi hộp hay những kẻ giết Vũ Như Tô cần? Cửu Trùng Ðài không thành, nên hảo hay hờn? Tháp của dân Hời giờ chỉ còn là một phần ký ức giống như Angkor!” Văn minh Chiêm Thành và văn minh Angkor đều thuộc về những nền văn minh đã tàn phá. Số phận, bí mật về sự sống còn hoặc tàn lụi của các nền văn minh và các dân tộc là một chủ đề tư tưởng sâu sắc trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng, và những suy tư sâu lắng từ thời trẻ đến khi qua đời của ông về số phận của dân tộc chúng ta, so với số phận của các dân tộc khác, chỉ ra rằng ông thật sự là một Con Người Việt Nam kiêng chữ. Ông vừa vui mừng về sự sống còn của dân tộc, vừa lo lắng về tương lai của nó, tương lai đó, ông nghĩ đúng, phụ thuộc vào việc dân tộc có thể thể hiện được tiềm năng sáng tạo của mình hay không. Đây là động lực mạnh mẽ khiến Nguyễn Huy Tưởng viết vài lần vở kịch Vũ Như Tô. Nguyễn Huy Tưởng ghi chép, nhưng không chia sẻ quan điểm của Trương Tửu về Đạo Việt Nam, mà chính là “sống trước đã, sáng tạo sau”(14). Vì sáng tạo thuộc về nhiệm vụ, trách nhiệm của từng con người và từng dân tộc. Có thể thực hiện ở nhiều cách khác nhau, không nhất thiết phải thông qua những tác phẩm nghệ thuật lớn lao khiến thế giới kinh ngạc. Nhưng nhiệm vụ ấy phải được thực hiện, và không thể xem nó là nhiệm vụ thứ yếu, như Trương Tửu đã làm. Nhìn vào lịch sử, ta thấy có những dân tộc hay những nền văn minh đã suy tàn vì, vào một giai đoạn nào đó, họ đã hao hụt hết tiềm năng sáng tạo của mình (văn minh Angkor là một ví dụ điển hình). Nhưng, ngay trước mắt chúng ta, một số dân tộc (ở Bắc và Trung Phi) có lịch sử khá lâu đời; họ hiện đang thực hiện – khó nói cách khác – sự hủy diệt lẫn nhau và sự tự hủy diệt. Có lẽ bởi vì họ không tìm thấy con đường giải phóng tiềm năng sáng tạo của mình, và những tiềm năng đó đã biến thành sức mạnh phá hủy? Vở kịch Vũ Như Tô thúc đẩy chúng ta suy nghĩ và suy nghĩ…
Một tác phẩm như Vũ Như Tô chỉ có thể xuất hiện trong thời đại hiện nay, nó là một trong những trái ngọt sớm của quá trình hòa nhập văn hóa thế giới của Việt Nam. Chúng tôi đã cố gắng nghiên cứu vở kịch và tiểu thuyết Âu – Mỹ của thế kỷ XIX – XX, nhưng chưa tìm thấy tác phẩm nào viết trước năm 1940 có chủ đề tương tự và đạt đến mức độ bao quát lịch sử như tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng. Nhưng cũng trong những năm mà nhà văn của chúng ta viết lại vở kịch ấn tượng của mình, bên kia bờ Thái Bình Dương, nhà văn lưu vong người Đức Thomas Mann đã sáng tác tiểu thuyết – bi kịch Bác sĩ Faustus(15). Nhân vật chính trong tiểu thuyết đó, nhạc sĩ thiên tài Adrian Leverkuhn, sống trong thời đại mà nghệ thuật đã tự nâng mình lên tháp ngà của mình, không quan tâm đến các lĩnh vực khác của cuộc sống, khi mà sự đổi mới trong nghệ thuật trở thành mục tiêu tự thân và mệnh lệnh áp đặt cho tất cả nghệ sĩ, Adrian Leverkuhn càng xa lạ với bản thân mình sáng tạo càng cảm thấy trống rỗng bên trong cảm hứng sáng tạo. Và, bị quỷ dữ cám dỗ, chàng đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ để đổi lấy hai mươi bốn năm sáng tạo đầy hứng khởi, nhưng dưới ngòi bút của chàng chỉ hiện ra những bản nhạc của sự chế nhạo tất cả, sự hủy hoại cuồng nhiệt và sự tuyệt vọng lạnh lùng… Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và Bác sĩ Faustus của Thomas Mann như hô vang đến nhau từ hai bờ đại dương. Một tác phẩm đòi hỏi cho cái Đẹp nghệ thuật quyền trở thành giá trị tự thân, nhưng cũng cảnh báo về mối nguy hiểm ẩn chứa trong tham vọng muốn đứng lên trên tất cả các giá trị sinh tồn khác. Tác phẩm kia phơi bày những hậu quả bi thảm, khi tham vọng đó được đáp ứng.