Đề bài: Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương
I. Tóm tắt chi tiết
1. Giới thiệu
2. Nội dung chính
3. Kết luận
II. Bài mẫu văn bản
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương lựa chọn
I. Cấu trúc Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương (Chuẩn)
1. Bắt đầu
- Tóm tắt về Phan Bội Châu.
- Giới thiệu tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương.
2. Phần thân bài
a. Hai câu thơ đề: Quan điểm về tinh thần trí lực trong thời đại mới:
- Nam nhi sống trên cõi đời cần phải khắc tạo chữ “lạ” cho bản thân, không chấp nhận sự bình thường và nhạt nhòa của cuộc sống, mà phải nuôi dưỡng lý tưởng cao quý, những ước mơ lớn lao và lòng tráng chí mạnh mẽ ở mọi hướng.
b. Hai câu chân lý: “Trong khoảng thế kỷ cần có người/Sau này muôn đời chẳng có ai” thể hiện quan điểm của tác giả về trách nhiệm của người đàn ông đối với đất nước, dân tộc, là một nghĩa vụ công dân cần phải hoàn thành.
- “Trong khoảng thế kỷ”, gợi nhớ về một thời đại lịch sử của dân tộc, đồng thời đề cập đến trách nhiệm của mỗi người đối với sứ mệnh lớn của đất nước.
- “Sau này muôn đời chẳng có ai?” là một thách thức, thể hiện kỳ vọng và động viên của tác giả đối với các thế hệ trẻ và những người sau này.
c. Hai câu phê phán: sự nhận thức tiến bộ của một nhà học giáo yêu nước, một nhà cách mạng mới trước thực tế của dân tộc.
- “Non sông đã khuất” là biểu hiện của sự mất quyền lực dân tộc, sự mất lãnh thổ và sự suy tàn của hệ thống phong kiến.
- “Hiền thánh đâu học mãi hoài”, đặt ra vấn đề trực tiếp, chỉ ra sự lạc hậu trong giáo dục, đồng thời phơi bày nguyên nhân khiến đất nước trở nên yếu đuối.
d. Hai câu thơ cuối “Nguyện bay vút bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” là biểu tượng của những nhà nghiên cứu yêu nước băng qua biển lớn để khám phá thế giới mới, học hỏi kiến thức mới để quay về phục vụ cho Tổ quốc, dân tộc, với tâm hồn kiêu hùng và lòng tự tin không ngừng.
3. Kết luận:
Đưa ra cảm nhận.
II. Bài văn mẫu Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương
Tips Phương pháp phân tích đoạn thơ độc đáo, đặc sắc
1. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, mẫu số 1 (Chuẩn):
Phan Bội Châu, một nhà văn hóa lớn, một nhà chính trị, một 'nhân vật vĩ đại', với nhiều đóng góp tiên tiến trong thời kỳ đầu thế kỷ XX, là biểu tượng lãnh đạo trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Nổi tiếng với tư tưởng giải phóng dân tộc theo hướng tư bản chủ nghĩa, Phan Bội Châu đã mở ra một góc nhìn mới về cách mạng, tạo lập tiền lệ cho Hồ Chí Minh. Ngoài thành công chính trị, ông còn ghi danh với nhiều sáng tác văn học, là người mở đầu cho văn học cách mạng Việt Nam, kết hợp chặt chẽ chính trị và tâm lý tình cảm trong nhiều tác phẩm. Lưu biệt khi xuất dương là một kiệt tác của Phan Bội Châu, phản ánh đầy đủ phong cách sáng tạo và tư tưởng cách mạng của ông, liên quan chặt chẽ đến giai đoạn biến đổi tư tưởng cách mạng của ông.
Nói về Lưu biệt khi xuất dương là một tác phẩm liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1905, trước khi ông rời bờ cùng một nhóm thanh niên xuất phát sang Nhật Bản tìm kiếm con đường cứu nước. Đây là sự động viên, khích lệ và truyền động viên cho tinh thần của những người mang tư tưởng và tráng chí tốt đẹp, họ băng qua biển lớn để khám phá thế giới mới, học hỏi kiến thức mới và quay về phục vụ quê hương và dân tộc, với tâm hồn kiêu hùng và lòng tự tin không ngừng.
Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để nhận thức ý chí và khát vọng cao đẹp của Phan Bội Châu
Theo Nguyễn Ái Quốc, cụ Phan được tán dương sâu sắc: “một anh hùng, một thiên sứ được hai mươi triệu đồng bào tôn kính”. Điều này cho thấy ở Phan Bội Châu, ta thấy sự hội tụ của vẻ đẹp trong một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn kết hợp giữa tinh thần nhà nho và chí sĩ cách mạng theo hướng tư bản (có đôi chút khuynh hướng xã hội). Trong Lưu biệt khi xuất dương, vẻ đẹp nhân cách và tư tưởng của Phan Bội Châu rõ ràng từ hai câu thơ đầu, có thể gọi là chí làm trai trong thời đại mới.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, lịch sử nước nhà biến động mạnh mẽ. Pháp xâm lược nước ta lần đầu tiên vào tháng 1/8/1958, trong khi triều đình nhà Nguyễn yếu hèn, chế độ phong kiến thối nát, đối mặt nguy cơ sụp đổ. Nhiều nhà nho yêu nước, thương dân, nhưng bất lực trước thời cuộc, trốn tránh. Phan Bội Châu là một trong số ít những nhà nho tham gia các phong trào nổi dậy chống ngoại xâm. Với nhân cách văn hóa lớn, ông đón nhận nhiều khuynh hướng chính trị, tham gia phong trào Cần Vương và các khởi nghĩa truyền thống. Nhìn nhận chế độ quân chủ lập hiến lỗi thời, ông quyết định giải phóng dân tộc theo mô hình tư bản chủ nghĩa, mở đường cho phong trào Đông Du. Phan Bội Châu là anh hùng hiểu biết thời đại, giữ nguyên nhân cách nhưng cải biến để không lạc hậu, đồng thời thách thức thời cuộc với ý chí, lý tưởng biến đổi càn khôn.
“Trong thế kỷ cần có người
Mai sau bền bỉ, hứa không phai”
Hai dòng thơ tiếp theo là nhìn nhận của tác giả về vai trò quan trọng của bản thân trong sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. “Trong thế kỷ” là cụm từ mang nhiều nghĩa, ám chỉ giai đoạn biến động của đất nước cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi Pháp xâm lược, triều đình yếu đuối, và các phong trào nổi dậy truyền thống thất bại. Đây là thời kỳ khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc kể từ năm 938. Phan Bội Châu, sinh ra trong thời kỳ đầy đau thương, tự nhận thức trách nhiệm của mình đối với đất nước. Với tư cách là một bậc đại trượng phu, ông hiểu rằng cuộc sống người nam nhi chỉ có trăm năm, cần sống để trở thành người “nam nhi” để không lãng phí công ơn của tạo hóa. Ông khuyến khích thế hệ trẻ tự xây dựng lý tưởng cao đẹp, mạnh mẽ để trả nợ công danh cho đất nước và dân tộc. Phan Bội Châu đã bước những bước đầu tiên đầy khó khăn, nhưng tràn đầy quyết tâm và hy vọng về một tương lai khởi sắc, để vực dậy đất nước. Tuy nhiên, sau trăm năm của ông, ai sẽ tiếp tục con đường ấy? Cụ Phan cần những người tiếp nối để biến lý tưởng cách mạng thành hiện thực.
““Non sông đã mất sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Ở hai dòng thơ sau, chúng ta thấy rõ nhân cách văn hóa tốt đẹp của Phan Bội Châu, chứng minh ông là một nhà nho tiến bộ, một nhà văn hóa đa chiều, linh hoạt, cập nhật với thời đại. Trong bối cảnh phong trào yêu nước truyền thống thất bại, nhất là phong trào Cần Vương, làm cho nhà nho thất vọng và nhụt chí, Phan Bội Châu lại xuất hiện từ những thất bại đó, học từ chúng và chấp nhận tư tưởng tư bản chủ nghĩa, mở đường cho phong trào Đông Du. Ông nhìn nhận rất rõ tình trạng của đất nước “non sông đã mất”, là cái chết của một chế độ phong kiến suy đồi từ hàng trăm năm nay. Một đất nước không có chủ quyền, tự do, và một hệ thống bù nhìn không thể cứu đất nước. Đối với nhà nho yêu nước như Phan Bội Châu, sự lụt lịch của dân tộc, sự ngang tàn của thực dân là điều không thể chấp nhận được. Ông nhìn nhận lỗi thời của triết lý Nho học và từ bỏ những gì ông gắn bó nhiều năm để theo đuổi tư duy mới, bắt đầu con đường cứu nước theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa. Dù sau này bị giam giữ tại Huế và trải qua thất bại với phong trào Đông Du, nhưng ông nhận ra và thấu hiểu về chủ nghĩa xã hội thông qua tư tưởng Mác Lê-nin.
“Muốn băng qua biển Đông, theo cánh gió
Nghìn sóng bạc xô, tiễn người ra khơi”
Sau những dòng thơ chính trị, lý tưởng, hai câu thơ cuối trữ tình lãng mạn cách mạng của tác giả được thể hiện rõ. “Muốn băng qua biển Đông, theo cánh gió” là biểu tượng cho khát vọng của tác giả khi đến một vùng đất mới, mong muốn học hỏi để phục vụ đất nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ. Ở đó, tâm hồn của người anh hùng được mô tả bay bổng và phóng khoáng, bộc lộ niềm vui, hoài bão to lớn của Phan Bội Châu khi bắt đầu hành trình sang Nhật. Cảnh “Nghìn sóng bạc xô, tiễn người ra khơi” mang lại khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên khi người chí sĩ ra đi, thể hiện tầm vóc, tâm hồn lớn lao và kiêu hãnh của người anh hùng trước sóng nước, mây trời.
Lưu biệt khi xuất dương là một tác phẩm hay và đặc sắc của Phan Bội Châu, thể hiện rõ khuynh hướng trữ tình chính trị trong thi ca của một nhà nho tiên tiến. Ông mở đường cho cách mạng Việt Nam theo hướng mới, bài thơ, mặc dù không thành công, đã trở thành tiền đề, bài học sâu sắc cho thế hệ sau, tiêu biểu là Hồ Chí Minh. Tác phẩm bộc lộ nhân cách và lý tưởng cao đẹp của Phan Bội Châu trong thời kỳ đất nước biến động, là động viên sâu sắc cho thanh niên Việt Nam đứng lên đấu tranh và hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
""""-- KẾT THÚC BÀI 1 """"-
Đồng thời tham khảo bài mẫu Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương để hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Các em cũng có thể tham khảo bài Cảm nhận về thơ Lưu biệt khi xuất dương, Lí tưởng sống của Phan Bội Châu trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương, Lập dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương,...
2. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương, mẫu số 2 (Chuẩn)
Phan Bội Châu (1867-1940), quê ở Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, từ nhỏ đã thể hiện tài năng xuất chúng và lòng yêu nước sớm. Ông tích cực tham gia nhiều phong trào chống Pháp, và sau những thất bại, ông nhận ra yếu kém trong tổ chức của các phong trào yêu nước thời đó. Ông đề xuất cứu nước theo con đường tư sản, tạo ra phong trào Đông Du, tổ chức Duy Tân hội. Phan Bội Châu mở đường cho cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu, mặc dù kết quả không như mong đợi. Ông nổi tiếng không chỉ với công cuộc chống Pháp mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn, mở đầu cho văn học cách mạng Việt Nam.
Lưu biệt khi xuất dương viết vào năm 1905, trước khi Phan Bội Châu và những thanh niên xuất sắc khác lên đường sang Nhật Bản học. Bài thơ động viên, cổ vũ tinh thần người ra đi và củng cố tinh thần, niềm tin của những người ở lại về một tương lai tươi sáng cho đất nước. Thể hiện chí khí của một nhà nho, với tinh thần yêu nước sâu sắc, quyết tâm trả nợ công danh khi Tổ quốc lâm nguy, lịch sử biến động.
Danh sách những bài phân tích thơ Lưu biệt khi xuất dương xuất sắc nhất
Trong hai câu thơ mở đầu, tác giả rõ ràng thể hiện quan điểm về chí làm nam nhi trong thời đại đầy biến động. Con người cần thay đổi ý chí để xây dựng con đường riêng, giữ gìn khí tiết nhà nho chân chính, đồng thời đảm nhận vai trò nhà cách mạng sôi nổi.
“Sống ngang ngược, độc lập kiên trì
Muốn khôn còn đâu chịu chuyển lời”
Phan Bội Châu khẳng định rằng nam nhi sống trên đời phải tạo ra sự “lạ” cho bản thân, không chấp nhận cuộc sống bình thường mờ nhạt. Người nam nhi cần tự thách thức, vượt qua mọi chướng ngại để đạt được thành công lớn, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường. Cuộc sống phải đáng sống, đầy ý nghĩa và kiến thức, chứ không phải sống an nhàn, chấp nhận sự sắp đặt của tạo hóa.
Trong bốn dòng thơ tiếp theo, tác giả thể hiện nhận thức về trách nhiệm của người làm trai đối với đất nước, dân tộc. Một món nợ công danh cần phải đền đáp, đặc biệt là trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, khi giặc dữ xâm phạm chủ quyền. Thanh niên cần đứng lên phụng sự cho Tổ quốc, là người góp phần vào sự phục hưng và bảo vệ đất nước.
Tới đoạn thơ luận, Phan Bội Châu cho thấy nhận thức tiên tiến của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng mới trước tình hình dân tộc. Nhà thơ phê phán sự suy thoái của chế độ phong kiến và nền nho học, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối mặt với thực tế và phục hưng đất nước.
“Lạc hậu nho học, nước nhà mất
Quan trọng vấn đề, chí sĩ báo trước”
“Nền nho học lạc hậu, đất nước mất mát. Quan trọng là phải nhìn nhận vấn đề và chí sĩ là người đầu tiên báo trước. Phan Bội Châu không chấp nhận giữ gìn những giá trị lạc hậu mà không mang lại lợi ích thực tế. Ông thể hiện lòng quyết tâm và sự hy sinh tất cả để phục hưng đất nước, đối mặt với hiện thực một cách mạnh mẽ và tự do.
Cuối cùng, trong hai dòng thơ kết, “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi,” là hình ảnh người chí sĩ đầy tình yêu nước, lên đường băng qua biển lớn, xa quê hương để học hỏi và quay về phục vụ Tổ quốc, dân tộc. Họ mang theo tinh thần hiên ngang và tự tin, tạo nên khung cảnh rộng lớn và tràn đầy khát vọng. Tâm hồn của họ trở nên kỳ vĩ, nổi bật giữa vẻ đẹp thiên nhiên, thể hiện lòng kiêu hãnh và tráng chí mạnh mẽ.
Lưu biệt khi xuất dương là một tác phẩm thơ xuất sắc, không chỉ thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhà cách mạng trong thời đại mới, mà còn truyền đạt sự động viên, khích lệ tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và khám phá lòng tự tin, lý tưởng và khát vọng của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh biến động. Bài thơ này có thể coi là một tác phẩm trữ tình cách mạng đầu tiên, mở ra kỷ nguyên mới trong văn học cách mạng Việt Nam.
3. Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương, mẫu số 3:
Phan Bội Châu, người được nhắc đến là nhà văn đầu tiên tận dụng văn chương để tuyên truyền cách mạng, là người mở đầu cho văn chương trữ tình chính trị. Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' là biểu tượng của sự tiên phong trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Bài thơ được sáng tác trong bữa cơm ngày Tết, Phan Bội Châu tổ chức để chia tay bạn bè, đồng chí trước khi sang Nhật Bản năm 1905. 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện ý tưởng mới mẻ, đầy trách nhiệm của tác giả, phản ánh niềm hăm hở và quyết tâm cao độ khi bắt đầu hành trình vượt biển, sang nước ngoài để 'mưu sự phục quốc.'
Chí làm trai, một giá trị được đề cập trong văn học từ xa xưa, đặc biệt được vinh danh trong thời kì chế độ phong kiến và thời đại đạo Nho. Để làm trai, nam nhi cần phải có công danh, sự nghiệp, điều này được thể hiện rõ trong bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão:
'Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu'
Nguyễn Công Trứ cũng đã viết:
'Nam nhi trưởng thành, bắc, tây, đông
Chứng minh sức mạnh khắp bốn phương'.
Để trở thành nam nhi được mọi người tôn trọng, cần phải chiến đấu, đạt được thành tựu, danh tiếng, và có sức mạnh 'vượt ra khỏi' để chứng minh tài năng, phẩm chất. Phan Bội Châu, lấy cảm hứng từ tư tưởng Nho giáo, mạnh mẽ tuyên bố về chí làm trai:
'Sinh là nam tử yếu hi kỳ,
Cam kết càn khôn tự thay đổi'.
(Trở thành chàng trai nổi bật trên cõi đời
Hãy để bản lĩnh tự thay đổi con đường)
Trước hết, ông cho rằng, làm chàng trai phải 'độc đáo', sống khác biệt với mọi người, tạo ra sự nổi bật. 'Độc đáo' cũng đồng nghĩa với điều phi thường, xuất sắc, đảo ngược trật tự thường ngày. Đó là cách sống tự chủ, không khuất phục trước hoàn cảnh, mà ngược lại, có bản lĩnh kiểm soát hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, với đất trời, với vũ trụ để tự khẳng định bản thân, đấu tranh để đạt được giấc mơ về danh tiếng. Phan Bội Châu nung nấu khao khát quay đầu lại càn khôn, không phải để 'càn khôn tự chuyển dời'. Ông không chấp nhận, không chùn bước trước số phận, mà ngược lại, ông sử dụng khả năng của mình để thay đổi số phận. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi tự tin trong vũ trụ, dám kiêu hãnh và thách thức cả trời đất.
Phân tích bài thơ Xuất dương lưu biệt có dàn ý
Con người, với tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy, luôn mang trong mình ý thức và trách nhiệm cá nhân trước thách thức của thời cuộc:
'Trăm năm giữa đời có ta,
Bước ra biển lớn chẳng hề thôi'
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)
Trong chặng đường trăm năm ngắn ngủi, Phan Bội Châu khát khao dành hết tâm huyết cho đất nước, để để lại những dấu ấn vĩ đại, lập nên những công lao phi thường, vươn tới vị thế một nam nhi lưu danh mãi mãi trong dấu thời gian. Tác giả khẳng định bản thân mình với tinh thần trách nhiệm, tích cực, không bao giờ là cái tôi nhỏ bé chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân. Hai câu thơ tương phản giữa vô hạn của thời gian và hữu hạn của cuộc đời, Phan Bội Châu sử dụng phủ định để làm nổi bật những gì ông khẳng định. Ông muốn thực hiện những điều phi thường, để tên tuổi ông tồn tại mãi mãi trong lịch sử, không ngần ngại với chí làm trai mà ông đặt ra như một nguyên tắc sống. Hành động hiến dâng cho cuộc sống không chỉ là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm của một người trượng phu. Trong khoảng thời gian hữu hạn đó, nam nhi phải thực hiện chí làm trai và để lại tiếng vang cho đời mãi mãi. Hai câu thơ như lời thách thức thúc đẩy tinh thần đồng lòng hướng tới những ước mơ lớn lao của con người, đặc biệt là những thanh niên tràn đầy nhiệt huyết phải cống hiến hết mình trong hành trình cứu nước, tìm kiếm hướng đi mới cho dân tộc.
Gắn kết với bối cảnh thực tế của đất nước, Phan Bội Châu đặt ra trách nhiệm mà nam nhi cần phải đối mặt với vận mệnh của dân tộc:
'Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si'!
(Non sông đã lang thang, chết mất hồn,
Hiền thánh ẩn mình, học vẫn đơn độc!)
Đất nước bị xâm lược, cảnh non sông không còn, chúng ta tồn tại chỉ để hòa mình trong nhục nhã, cảm giác cô đơn và đơn độc khi tri thức không còn giá trị trong bối cảnh đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức về tầm quan trọng của thời điểm. Sách vở trở nên vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị đe dọa. Quan trọng nhất là tìm ra con đường giải phóng cho đất nước khỏi sự áp bức của thực dân Pháp. Phan Bội Châu, tình yêu nước, kỳ vọng phong trào Đông du dưới sự lãnh đạo của mình sẽ đem lại những kết quả hữu ích cho đất nước. Hai câu kết cũng đánh thức tinh thần yêu nước, khuyến khích họ hành động để thay đổi tình hình của dân tộc.
Hai dòng cuối của bài thơ thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và sự cao cả trên hành trình cứu nước của người anh hùng yêu nước Phan Bội Châu:
'Ước trải trường phong Đông hải xa,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi'.
(Bay lượn bể Đông với đôi cánh gió,
Xô bồ sóng biếc tiễn hành trình.)
Phan Bội Châu, đầy lòng khát vọng, mong muốn vượt qua biển Đông theo hơi gió dẫn đường. Khao khát này thể hiện tâm hồn, lòng quyết tâm và sẵn sàng hành động của nhân vật trữ tình. Người muốn bay cao như cơn gió để bắt kịp thời đại. 'Bể Đông', 'đôi cánh gió', 'sóng biếc' là những hình ảnh lịch sử, đồ sộ, gợi lên khát vọng vượt lên trên thực tế u ám để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu. Tác giả 'mong ước' vì lý tưởng cao cả, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để đạt đến đích, hoàn thành chí làm trai của người nam nhi trong cuộc sống. Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt, mặc dù không dịch trung ương của từ 'nhất tề phi', nhưng đã phần nào thể hiện sức mạnh, tình yêu nước hùng mạnh và tinh thần chiến đấu hăng hái của tác giả. Trong thời đại mới, con người cần phải có tư duy và hành động để bắt kịp thời đại, chỉ như vậy mới có thể tìm ra con đường đúng để giành lại sự tự do cho dân tộc. Với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị sức mạnh mạnh mẽ để nắm bắt thời cơ và giành lại độc lập cho quê hương.
Thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh tâm huyết và sức mạnh đầy cảm xúc của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. 'Lưu biệt khi xuất dương' đã mô tả tâm lý, khao khát ra đi tìm đường cứu nước của một nhà lãnh đạo cách mạng. Nhân vật trữ tình hiện lên với hình ảnh mới, tràn đầy sức sống của thời đại.
""""- KẾT """"-
Bộ 3 bài mẫu phân tích bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' do Mytour biên soạn là nguồn tư liệu hữu ích và quan trọng cho các học sinh trong quá trình viết bài văn phân tích đoạn văn, đoạn thơ. Để nâng cao kiến thức môn Ngữ văn lớp 11, các bạn cũng cần xem qua bài mẫu Phân tích tình yêu trong Chí Phèo của Nam Cao, Phân tích truyện ngắn Vi hành, Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù, Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia,...