Đoạn ý
1. Bắt đầu
- Giới thiệu ngắn gọn về nhà văn Nguyễn Trãi (những đặc điểm chính về đời sống, tác phẩm tiêu biểu,…).
- Tóm tắt sơ lược về bài thơ “Bài ca Côn Sơn” (bối cảnh ra đời, tóm tắt giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…).
2. Phần chính
a. Khung cảnh Côn Sơn
- Miêu tả về thiên nhiên ở Côn Sơn:
+ Tiếng suối như những dây đàn êm dịu
+ Đá rêu thơm như đang ngồi trên chiếu mềm mại
+ Rừng thông dày như lớp màn: rừng thông rậm và dày đặc
+ Cỏ trúc tạo bóng mát: cỏ trúc mát mẻ, tạo ra bóng mát khi trời nắng
- Biện pháp nghệ thuật sử dụng:
+ Mô tả khung cảnh bằng cách so sánh có sức gợi cảm mạnh mẽ.
+ Màn hình họa có sự kết hợp giữa âm thanh và màu sắc.
+ Lựa chọn các hình ảnh miêu tả: rừng thông, cỏ trúc – biểu tượng của Côn Sơn, tượng trưng cho tinh thần cao quý
⇒ Tạo nên vẻ đẹp cổ điển, cao quý, tĩnh lặng và lãng mạn: có âm thanh sống động của con người, có màu xanh vô tận bao la và hùng vĩ của rừng Côn Sơn. Thiên nhiên như một người bạn tri kỷ, tình bạn thân thiết của nhà thơ.
b. Con người giữa khung cảnh thiên nhiên Côn Sơn
- Sử dụng các từ ngữ như “ta” nhằm nhấn mạnh sự hiện diện của “ta” ở mọi khía cạnh của Côn Sơn.
- Dùng nhiều động từ mạnh mẽ nhằm khẳng định vị thế thống trị của con người trước thiên nhiên hùng vĩ: Ta nghe, ta ngồi, ta nằm, ta đắm chìm trong thơ văn nhàn nhã…
⇒ Nhân vật trữ tình dừng lại lắng nghe âm thanh của thiên nhiên, sống cuộc sống cao quý, hòa mình vào trong cảnh thiên nhiên Côn Sơn.
- Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên:
+ Gắn bó, hoà quyện nhưng không để con người bị phôi phai trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ.
+ Nhân vật trữ tình mong muốn hòa mình vào cảnh vật một cách chân thành, toàn vẹn.
+ Ta nghe âm nhạc của suối bên tai.
+ Ta ngồi như trên chiếu êm dịu.
+ Tìm nơi bóng mát nằm.
+ Trong bóng cây ta ngâm thơ.
⇒ Thể hiện sức sống cao quý, sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong sáng, tươi đẹp, đồng thời khen ngợi sự sống cao quý, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
3. Kết luận
- Tóm tắt lại giá trị nghệ thuật và nội dung của bài thơ:
+ Nội dung: vẻ đẹp lôi cuốn, lãng mạn của thiên nhiên Côn Sơn và tinh thần, nhân cách cao quý, sống hòa mình với thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
+ Nghệ thuật: sử dụng điệp từ, so sánh, ngôn ngữ thơ nhẹ nhàng, êm đềm, bản dịch theo thể thơ lục bát với ngôn ngữ trong trẻo, sinh động,…
- Sự hòa quyện toàn vẹn giữa con người và thiên nhiên chính là do tinh thần cao quý, trí tuệ thi sĩ Nguyễn Trãi.
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta năm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi.
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đồng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thoả được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo tuần hoàn đổi thay,
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
(Bản dịch trong sách “Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi)
Trong các bản dịch “Côn Sơn ca” thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ông có nhiều bài thơ Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: “Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý” (Về Côn Sơn làm trong thuyền). Làng quê mới qua, như thấy chiêm bao đến: “Hương lý tài qua như mộng đáo” (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác).
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ.
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?”
(Mạn thuật – 13)
“Côn Sơn ca” là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời.
Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch…”
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
“Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê nhớ luống cúc vườn cũ:
“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao”
(“Ngày thu ngẫu nhiên làm”- Thơ dịch)
Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm”.
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:
“Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”
Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ “Bất quy khứ lai” lấy cảm hứng từ bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ương cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: “Dưới công danh đeo khổ nhục” (“Ngôn chí” -2), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (“Mạn thuật”-5). Người anh hùng thuở “Bình Ngô” đã từng “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” thế mà giờ đây tự trách mình “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”, điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ nhục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần “thanh chức”. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền:
“Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
Ắt đã trong bằng nước ở bầu”.
Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: “Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: “Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng”; ông tự cho mình là con ngựa già “còn kham rong ruổi”. là cây thông qua năm rét mà “còn dạn tuyết sương”. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong “Côn Sơn ca”:
”Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”
Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…” (Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở “bình Ngô”.
“Côn Sơn ca” còn hàm chứa triết lý về cuộc đời của Ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quý đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:
“Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan”.
Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung quy chỉ là “đều làm cho thỏa được như ý mình”.
Kiếp người khác nào “cây cỏ”, đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mấy núi, trăng ngàn:
“Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh”.
Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”(“Cung oán ngâm khúc”). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:
“Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh”.
Nguyễn Trãi viết “Côn Sơn ca” trước bao lâu vụ án Lệ chi viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, toả rộng trong tâm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên Ức Trai mới có suy ngẫm ấy. Về một phương diện khác, triết lý về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử “Anh hùng di hận kỷ thiên niên”)(“Quan hải”).
Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:
“Sao, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”.
Sao Phủ và Hứa Do hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kỳ Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hoà với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai Người Hiền xa xưa, mặt khác tự hào biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hòa với suối rừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của “Khúc hát bên ghềnh Côn Sơn” vậy.
Nếu Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo…là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. “Côn Sơn ca” là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của Ức Trai. Triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca thật ra không có gì mới. “Thân cát bụi lại trở về cát bụi” (Kinh Thánh) “Sinh tồn hoa ốc xứ – Linh lạc qui sơn khưu (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán). “Xử thế nhược đại mộng- Hồ vị lao kỳ sinh?”(Sống ở đời như giấc mộng lớn – Tội chi vất vả đời mình – Lý Bạch … có điều, qua “Côn sơn ca”, ta thấy hồn thơ của Ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kịch thương đời người cát bụi. Chất triết lý “Côn Sơn ca” giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta…
Mẫu số 2
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Nguyễn Trãi có lẽ đã sáng tác bài thơ này trong thời gian ông ẩn dật ở Côn Sơn để giữ cho tinh thần mình được thanh cao, trong trắng.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một địa điểm có sức hút đặc biệt. Vì vậy, hai lần ông rời bỏ các quan văn để ẩn dật, ông luôn trở về với Côn Sơn. Và Côn Sơn với những núi rừng thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng biệt đầy ấn tượng trong lòng thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi có cơ hội sống với chính mình. Cảm giác này giúp tâm hồn ông giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống, giữ gìn được tinh thần thuần khiết, cao quý:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Cảnh đẹp của Côn Sơn, yên bình, mở ra trước mắt, giúp tâm hồn của Nguyễn Trãi hòa mình vào thiên nhiên, quên đi mọi phiền muộn, lo toan:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn đầu của bài Côn Sơn ca khiến người đọc hiểu thêm về tâm hồn tinh túy của thi nhân Nguyễn Trãi. Trong cảm xúc của ông, vẻ đẹp của Côn Sơn hiện ra mơ màng và lãng mạn: tiếng suối chảy như tiếng đàn cầm, đá rêu phơi êm ái, rừng thông xanh mát,... tạo nên một hình ảnh hoang sơ, mộng mơ nhưng đầy chất nhân văn. Hơn nữa, đối với thi nhân, thiên nhiên không chỉ là bức tranh, mà còn là ngôi nhà thân thiện, chứa đựng nhiều cảm xúc, ý nghĩa sâu sắc.
Bức tranh tự nhiên được hoàn thiện bằng âm thanh nhẹ nhàng của tiếng suối, khiến người đọc như thấy mình đang ngồi bên suối ngâm thơ, hòa mình vào không gian yên bình, thanh tịnh của Côn Sơn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một so sánh tinh tế, làm cho người đọc nhìn nhận được sự đậm đà, sâu lắng của tâm hồn thi sĩ trước vẻ đẹp tự nhiên.
Sau những phút giây thư thái bên suối, thi nhân ngồi lại gần những tảng đá đã phủ một lớp rêu xanh. Ông ngồi đó, đánh cờ một mình hay chỉ đơn giản là ngồi thưởng ngoạn cảnh đẹp? Điều này không quan trọng, quan trọng nhất là ông cảm nhận được sự thanh thản, hài lòng tột độ trong lòng mình, tạo ra một cuộc sống đẹp đẽ, gắn bó và thấm đẫm tình người.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một so sánh tuyệt vời, cho thấy sự kết nối sâu sắc giữa con người và thiên nhiên tại Côn Sơn. Đây thực sự là một cuộc sống tươi đẹp, hòa mình vào thiên nhiên, tạo ra những trải nghiệm tâm linh tuyệt vời.
Tâm hồn thanh thản, cao quý của thi nhân Nguyễn Trãi đã được thể hiện rõ nét trong những dòng văn này.
Cũng tại Côn Sơn, tình yêu của Nguyễn Trãi dành cho thiên nhiên không ngừng phát triển, trở thành một nguồn cảm hứng không ngừng cho tác phẩm của ông:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vạy then
(Thuật hứng - Bài 24)
Tình yêu này đã thấm sâu vào tâm hồn thi nhân, khiến ông sợ mất đi vẻ đẹp hoang dã của thiên nhiên:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập - Bài 160)
Tâm hồn thanh cao và tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thực sự là điều đáng ngưỡng mộ.