1. Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu (Thu Điếu) của Nguyễn Khuyến
I. Tổng quan về Phân tích Câu cá mùa thu
1. Giới thiệu
- Nguyễn Khuyến, một tác giả ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Nho giáo, đã sáng tác những tác phẩm tập trung vào đạo đức con người và tâm hồn quân tử. Bài thơ 'Câu cá mùa thu': một trong những tác phẩm nổi bật của ông, thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh tịnh khi ông ở ẩn.
2. Phần chính
* Hai câu chủ đề
- Trong bức tranh mùa thu, hai hình ảnh 'ao thu' và 'chiếc thuyền câu' bé tẻo teo hiện lên như một sự đối lập cân đối, tạo nên sự hài hoà đặc trưng của mùa thu.
+ Màu sắc 'trong veo': Thể hiện sự dịu dàng, thanh nhã của mùa thu.
+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo, biểu tượng của sự nhỏ bé, giản dị.
+ Cách gieo vần 'eo': Tạo nên sức sống và biểu cảm mạnh mẽ...(Còn tiếp)
>> Chi tiết về Dàn ý Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu tại đây.
II. Phân tích Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến
1. Bài mẫu Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu, mẫu số 1:
Thu điếu thuộc thể loại thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, với nét đẹp tĩnh lặng của mùa thu nông thôn, lồng ghép tâm hồn cô đơn và buồn bã của nhà thơ yêu quê hương.
Văn mẫu phân tích bài thơ câu cá mùa thu lớp 11 chi tiết
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tạo nên không gian hai chiều, hòa hợp màu sắc sóng biếc và lá vàng. Nguyễn Khuyến tinh tế trong cảm nhận, phép đối tài tình làm nổi bật nét thu.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu mênh mông, xanh ngắt thăm thẳm. Tầng mây trắng lơ lửng, trôi nhẹ nhàng, tạo nên bức tranh thoáng đãng, êm đềm, và tĩnh lặng. Con đường làng vắng lặng, không một bóng người, chỉ ngõ trúc quanh co khách vắng teo, đọng lại hình ảnh cô đơn và trống vắng. Cảnh làng xưa yên bình nhưng đầy bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây như là biểu tượng của vẻ đẹp thu thuần khiết, làm tăng thêm sự thân thuộc của làng quê. Thi sĩ mơ màng đắm chìm trong hình ảnh quen thuộc. Hai câu kết đưa vào bức tranh thu một yếu tố mới:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu mang đầy ý nghĩa của mùa thu câu cá. Sáu câu đầu chỉ là hình ảnh về cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Đến phần kết, người câu cá mới xuất hiện. Tư thế nhàn nhã, tựa gối ôm cần, đợi chờ lâu chẳng được. Một giây phút chợt tỉnh khi nghe tiếng cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng thu. Như là một Lã Vọng câu cá bên bờ sông Vị từ hàng ngàn năm trước. Tiếng cá đớp động kết hợp với tiếng lá thu đưa vèo, tạo nên âm thanh thu của làng quê xưa. Tâm trạng của người câu cá lạc lõng và buồn bã. Một cuộc đời trong sự thanh bạch, tâm hồn thanh cao.
"""-- HẾT BÀI 1 """"--
Sau khi tham khảo bài mẫu phân tích bài câu cá mùa thu, để nắm vững các bài thơ và văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 11, hãy đọc thêm các mẫu Soạn bài Lẽ ghét thương (trích truyện Lục Vân Tiên), Đọc hiểu bài thơ Thương vợ, Soạn bài Chạy giặc, Tâm sự của nhân vật trữ tình qua bài thơ Tự tình,....
2. Bài mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 2:
Trong thơ ca dân tộc, có nhiều bài thơ tuyệt vời về mùa thu. Nguyễn Khuyến sáng tác ba bài thơ thu đẹp: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Mỗi bài thơ đều tuyệt vời, thể hiện tình cảnh sôi động của quê hương. 'Thu điếu' được Xuân Diệu gọi là 'điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam'. Bài thơ tả cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, và tình yêu quê hương tha thiết.
Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao 'trong veo' toả hơi thu 'lạnh lẽo'. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại, khí thu lành lạnh lại trở nên 'lạnh lẽo'. Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ - 'bé tẻo teo'.
Những bài văn Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất
Phần thực tiếp theo mang đến những nét vẽ tài hoạ làm nổi bật thêm cái hồn của cảnh thu:
'Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'.
Màu 'biếc' của sóng hòa quyện với sắc 'vàng' của lá, tạo nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất tinh tế, 'lá vàng' và 'sóng biếc' tương ứng với tốc độ 'vèo' của lá bay và 'tí' của sóng gợn.
Hai câu mở rộng không gian mô tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời 'xanh ngắt' với những tầng mây 'lơ lửng' trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là 'xanh ngắt': - 'Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao' (Thu vịnh), - 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt' (Thu ẩm), - 'Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt' (Thu điếu).
'Xanh ngắt' là loại xanh sâu có chiều sâu. Bầu trời thu không mây, nhưng xanh ngắt thăm thẳm, tạo nên cảm giác sâu lắng. Màu xanh ngắt mở ra không gian rộng lớn, một cái nhìn sâu sắc của nhà thơ đang câu cá. Ông lão đưa mắt nhìn quanh làng quê. Dường như mọi người đã rời đồng đi, xóm thôn vắng bóng, im lặng. Các con đường quanh co, lạc lõng, không có ai đi qua:
'Ngõ trúc quanh co khách vắng teo'.
Cảnh vật êm đềm, thoáng chút buồn cô tịch, hiu quạnh. Người câu cá như đang lạc trong giấc mơ của mùa thu. Mọi thứ, từ mặt nước 'ao thu lạnh lẽo' đến 'chiếc thuyền câu bé tẻo teo', từ 'sóng biếc' đến 'lá vàng', từ 'tầng mây lơ lửng' đến 'ngõ trúc quanh co' hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh... thoáng chút buồn bâng khuâng nhưng rất gần gũi, thân quen với mỗi tâm hồn Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương thật dễ thương!
Cảm xúc chính của bài thơ 'Thu điếu' nằm ở hai câu kết:
'Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo'.
'Tư thế ôm cần lâu' là tư duy của người câu cá, đồng thời là tâm hồn thoải mái của nhà thơ, thoát khỏi mê cung danh lợi. Tiếng cá đớp động, đặc biệt là từ chữ 'đâu', đánh thức sự huyền bí, xa xăm, và bất ngờ. Nhà thơ câu cá ở đây không chỉ là một quan to triều Nguyễn, mà còn là một nhà nho thanh bạch, sống ẩn dật tránh xa cuộc sống thực tế, không cam lòng trở thành bàn tay sai lệch cho thực dân Pháp. Sau câu chữ, loài nhà nho hiện lên với hình ảnh một tâm hồn thuần khiết, lạc lõng. Dù đang ôm cần câu cá, tâm hồn nhà thơ đắm chìm trong giấc mơ thu, nhưng bỗng nhiên, lại trở về thực tại khi 'Cá đâu đớp động dưới chân bèo'. Điều này làm nổi bật cảnh ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng, giống như nỗi cô đơn và trống vắng trong tâm hồn của nhà thơ.
Âm thanh của tiếng cá 'đớp động dưới chân bèo' làm nổi bật hình ảnh yên bình của chiếc ao thu. Cảnh thiên nhiên luôn kết nối với tình cảm con người. Nguyễn Khuyến trải nghiệm tình cảm, truyền đạt tâm hồn, tìm sự an ủi từ thiên nhiên, từ màu sắc 'vàng' của lá thu, từ màu 'xanh ngắt' của bầu trời thu, từ làn sóng 'biếc' trên mặt ao thu 'lạnh lẽo'...
Đúng như vậy, 'Thu điếu' là một bức tranh tuyệt vời mô tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Khuyến. Phong cảnh mùa thu quê hương được mô tả qua gam màu sắc phong phú, nét vẽ tinh tế và gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi 'vèo' trong làn gió thu, tiếng cá 'đớp động' chân bèo - đó là âm thanh thuần dân, quen thuộc của làng quê, khiến chúng ta gợi nhớ về những ký ức đẹp về quê hương.
Nghệ thuật sắp xếp vần của Nguyễn Khuyến là độc đáo. Vần 'eo' trong bài thơ tự nhiên, thoải mái, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí độc giả. Những vần thơ như một lời thu hút, gần gũi với chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã phát biểu: 'Bài thơ 'Thu điếu' thu hút bởi những điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, và một chút vàng của chiếc lá thu rơi'...
Thơ là bản hòa âm của tâm hồn. Nguyễn Khuyến mến mộ mùa thu, yêu thiên nhiên của quê hương với tất cả tình cảm đậm sâu. Ông là nhà thơ gắn liền với vẻ đẹp của làng quê Việt Nam. Khi đọc 'Thu điếu', 'Thu vịnh', 'Thu ẩm', chúng ta không chỉ thêm yêu mùa thu nơi quê nhà, mà còn yêu thêm làng quê bình dị, đất nước hùng vĩ. Với Nguyễn Khuyến, việc miêu tả mùa thu và yêu mến vẻ đẹp của nó cũng là cách thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương. Nguyễn Khuyến, nhà thơ tài năng, đã góp phần quan trọng làm cho thơ ca cổ điển Việt Nam trở nên vinh quang.
3. Bài mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 3:
Khi thu về, bầu trời mang theo sắc màu u tối, cùng với gió mát mẻ và những chiếc lá vàng rơi nhẹ nhàng, bỗng nhiên tạo nên bức tranh u tối và lạnh lùng. Mùa thu thường khiến con người trầm lắng và đầy cảm hứng, đặc biệt là nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ sĩ. Nếu quay đầu nhìn lại quá khứ, ta sẽ bắt gặp những bức tranh thu tuyệt vời trong những tác phẩm thơ của nhiều thế hệ. Không thể không nhắc đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – một bức tranh thu hút mà Xuân Diệu đã một lần nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhìn vào bài thơ, điều đầu tiên gây ấn tượng là sự hiện diện mạnh mẽ của vần 'eo'. Đếm xem có tới bảy lần sử dụng vần này. Trong tiếng Việt, vần 'eo' thường làm cho không gian, sự vật bị thu hẹp, co lại, và kết tinh trong giới hạn nhỏ nhất của nó. Trong mùa thu, không khí đã lạnh, trở nên càng lạnh khi từ 'lạnh lẽo' nảy ra. Nước trong ao thu đã càng trở nên trong sáng từ 'trong veo'. Khoảng trống rộng lớn làm cho chiếc thuyền câu trở nên nhỏ bé hơn, đặc biệt khi tác giả mô tả nó như 'bé tẻo teo'. Câu thơ 'Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo' khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ của Trần Đăng Khoa:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến
Trở lại câu thơ của Nguyễn Khuyến, động từ 'vèo' khiến chúng ta cảm nhận được sự rơi nghiêng của lá. Câu thơ 'Khẽ đưa vèo' với cấu trúc động từ lạ làm cho chúng ta cảm thấy như tiếng rơi không phải là hiện thực mà đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá của nhà thơ như là ảo ảnh, nó không kiểm soát được liệu nó có thật hay không. Bức tranh mùa thu chợt lay động dưới nét vẽ của nhà thơ.
Trong hai câu đầu của bài thơ, bức tranh mùa thu không mở ra trong không gian rộng lớn như ở 'Thu vịnh', mà nó bị hạn chế trong không gian nhỏ bé của 'ao thu'. 'Ao thu' là một cụm từ có vẻ đặc biệt và lạ. Hình ảnh của 'ao thu' muốn chứng minh sự nhỏ bé và đặc biệt của nó.
Toàn bộ khung cảnh được vẽ như một bức tranh nhỏ xíu, có thể đặt trong lòng bàn tay. Nó có điều gì đó đáng yêu, thu hút và kì lạ. Bức tranh thu gọn toàn bộ không gian của làng cảnh Việt Nam, yên bình và vắng lặng nhưng đồng thời chứa đựng một sức sống mạnh mẽ.
Từ đó, không gian mở ra, nhà thơ dịch chuyển tầm nhìn từ không gian nhỏ bé của 'ao thu' đến không gian rộng lớn của bầu trời. Ở đó, nhà thơ bắt gặp:
'Đám mây trôi nhẹ trên bầu trời xanh ngắt'
Động từ 'trôi nhẹ' tạo ra cảm giác chuyển động mà ngỡ như đang di chuyển mà không làm thay đổi vị trí. Những đám mây mùa thu nhẹ nhàng nhích từng chút một, bồng bềnh trong bầu trời xanh ngắt của thu. Sự chuyển động của chiếc thuyền câu cũng tương tự, như một nhịp nhàng lắc lư trong sóng nước mùa thu.
Quay trở lại câu thơ:
'Sóng biếc theo làn hơi gợn nhẹ'
Ta nhận thấy có điều gì đó ấn tượng. Từ 'làn' làm cho cảnh vật trở nên mơ hồ, khó nắm bắt. 'Hơi gợn tí' tạo ra hình ảnh của những làn sóng nhẹ nhàng. Không ồn ào như sóng biển, mà chúng trôi lăn nhẹ nhàng trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như đắm chìm trong sự yên bình và tĩnh lặng.
Có một câu ngạn ngữ cho rằng: không có vẻ đẹp nào hoàn hảo mà không có những đặc điểm kỳ cục. Vì vậy, câu thơ:
'Ngõ trúc quanh co, chỉ có cỏ khách vắng teo'
Dù mang đến cảm giác hồi hộp nhưng bức tranh mùa thu vẫn tràn ngập vẻ đẹp thơ mộng, an lành và tinh khôi. Con người trong tác phẩm trở nên rõ nét hơn:
'Tựa gối, buông cần lâu không được,
Cá đâu động đậy dưới chân bèo.'
Câu 'Tựa gối ôm cần' đầy ẩn chứa. Nó như thú nhận một nỗi đau sâu, như đang bóp nghẹn tâm hồn ông. Có lẽ đó là nỗi buồn của thời đại, nỗi đau mà ông giữ mãi. Kết thúc bài thơ, cảnh mùa thu dậy sống như được hồi sinh bởi âm thanh mạnh mẽ của 'đâu đớp động'. Tạo ra sự đối lập: Cảnh vật yên bình trở nên sống động, bức tranh đầy sức sống. Tuy nhiên, nó cũng khiến bài thơ trở nên lặng lẽ. Ba từ 'đâu đớp động' nổi lên, rồi lại chìm xuống dưới áp lực mạnh mẽ của vần 'eo'. Sử dụng kỹ thuật nghệ thuật, việc sử dụng động từ để miêu tả sự tĩnh lặng làm cho cảnh vật trở nên càng yên bình, nỗi buồn bao trùm một khung cảnh rộng lớn hơn.
Bài thơ mang đến âm hưởng xanh xao của bầu trời, lá cây, và nước mùa thu. Tất cả hòa quyện tạo nên một bức tranh hài hòa, đầy cân đối, có gam màu đặc trưng của Việt Nam. Chiếc lá vàng như một điểm nhấn, làm mới lạ bức tranh mùa thu.
Đọc 'Câu cá mùa thu' khiến ta thêm yêu quý vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương Việt Nam. Bức tranh mùa thu nổi bật giữa cuộc sống hối hả. Có lẽ đôi khi chúng ta cần dừng chân, ngắm nhìn 'Thu điếu' để làm mới tinh thần, yêu quê hương, yêu tiếng Việt trong sáng và đẹp đẽ hơn nữa ...
4. Văn mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 4:
Việc câu cá là một trải nghiệm thanh tao đối với những người sáng tạo. Có những người tài năng, không cần phải đi câu để đợi đến thời cơ. Ngồi bên bờ, ai nghĩ đến chuyện đại dương và thế giới xoay chuyển. 'Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ' (có người còn sử dụng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha - Trung Quốc). Có những người lớn mang theo cần câu để tận hưởng niềm vui nhẹ nhàng, hòa mình vào thiên nhiên, suy nghĩ trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến câu cá theo kiểu này. Ông mở cửa tất cả các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu cá của xứ Bắc. Như đám trẻ trong làng, ông câu cá với sự chăm chú, hồi hộp, và say mê. Kết quả của trò chơi đó là bài thơ 'Thu điếu', một kiệt tác văn học nước nhà:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu, bé tẻo teo.
Sóng biếc, theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu, đớp động dưới chân bèo.
Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ nhàng thênh thênh:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu, bé tẻo teo.
Tâm trạng trữ tình ẩn sau lớp từ ngôn. Cảm xúc của nhà thơ hiện lên mảnh mai và tinh tế. Mùa thu đã chìm vào bóng chiều sâu, 'ao thu lạnh lẽo' với bề mặt nước 'trong veo' gần như mờ nhạt, ao thu là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ nằm giữa những chiếc ao nhỏ, ao nhỏ thì chiếc thuyền câu cũng bé nhỏ theo 'bé tẻo teo', vần 'eo' như là một thách thức nguy hiểm, nhưng câu thơ lại trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút kỹ thuật nào.
Bài phân tích văn mẫu về bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến
Thuyền câu hiện hình, nhưng người câu lại không xuất hiện. Chẳng có điều gì đáng chú ý. Người câu đắm chìm trong thế giới nước thu với trời mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn yên bình mà đã bắt đầu rộn sóng, với hai nút trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai nút trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng bé vì ao nhỏ, hiện hình trong bóng tối. Gió nhẹ, gió mùa thu heo may. Sóng được tô điểm màu sắc, 'sóng biếc' thật tuyệt vời. Tác giả tinh tế từng chi tiết nhỏ. Hai câu song song: “sóng biếc' và “lá vàng”, là hai gam màu đặc trưng của mùa thu. 'Hơi gợn tí' đối với 'khẽ đưa vèo', sự chuyển động dọc kết hợp với chuyển động ngang tinh tế.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã để hồn mình theo chiếc lá vàng 'khẽ đưa vèo' trên mặt ao trong lành. Màu vàng của mùa thu, được nhiều thi nhân ca tụng:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Và đây, chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu có sức quyến rũ: “Bài Thu Điếu cuốn hút với những điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng rực rỡ của chiếc lá thu rơi...”. Xuân Diệu thấu hiểu bài thơ một cách sâu sắc.
Tác giả mở rộng không gian lên với chiều cao, tạo nên không khí tươi mới và không gian rộng lớn cho bức tranh “Thu điếu”, nâng cao thêm chiều sâu và sắc thái:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” tuyệt vời, màu xanh ấm áp và thân thiện. Trong “xanh ngắt” ẩn chứa sự sâu sắc của bầu trời. Mây không chạy trôi mà “lơ lửng” như những đám mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt”, tạo nên không gian thanh bình. Sau đó, tác giả quay trở lại cảnh làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, con đường quen thuộc với bóng mát của những cây tre. Trong thơ Nguyễn Khuyến, tre không chỉ là cây, mà là “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Sự tương phản giữa những cây tre thẳng và con đường quanh co rất sâu sắc. Trời lạnh, đường quê vắng bóng, “khách vắng teo”. Bức tranh thu tràn ngập nỗi buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người câu cá như một đường nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng nhìn thấy,
Cá nằm yên dưới chân bèo.
Nhà thơ thu hẹp lại bản thân “tựa gối ôm cần”, như để phản ánh cái nhỏ bé của chiếc thuyền, của khung cảnh xung quanh. Người câu cá lặng lẽ trong suy nghĩ, đột nhiên một động tác nhỏ đã đánh thức nhà thơ:
Cá nằm yên dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) tả một chút xao động trong làn ao và nhiều xao động trong lòng tinh tế.
Trong dãy thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu chọn một bài, thì đó là 'Thu điếu' - kiệt tác trong thơ cổ điển nước nhà. Mô phỏng bức tranh mùa thu bằng sắc tinh tế, đường nét gợi cảm. Nhạc điệu độc đáo, vần gieo hiểm hóc, tự nhiên, hồn nhiên.
5. Phân tích Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, mẫu số 5:
Trong bài 'Thu điếu', Xuân Diệu khẳng định nó là 'điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam', là tác phẩm tả cảnh ngụ tình độc đáo. Bài thơ với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Mùa thu, Trời thu đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên với dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Đôi câu mở đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao 'trong veo' phát ra hơi thu 'lạnh lẽo'. Sương khói mùa thu bao phủ cảnh vật. Nước ao thu trong lại, không khí thu lạnh lẽo. Trên mặt nước, một chiếc thuyền câu rất nhỏ xuất hiện - 'bé tẻo teo'. Cảnh ao và chiếc thuyền câu là trung tâm của bài thơ, hình ảnh bình dị, quen thuộc, đáng yêu của quê hương. Theo Xuân Diệu, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có nhiều ao, nên ao nhỏ, thuyền câu cũng 'bé tẻo teo'.
'Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo'
Các từ ngữ như 'lạnh lẽo', 'trong veo', 'bé tẻo teo' mô tả đường nét, hình dáng, màu sắc của cảnh vật, âm thanh lời thơ như tiếng thu, hồn thu hòa mình vào.
Phân tích Câu cá mùa thu để hiểu bức tranh làng cảnh đặc sắc trong thơ Nguyễn Khuyến
Các dòng tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm nổi bật hồn của cảnh thu:
'Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'
Màu 'biếc' của sóng hòa quyện với sắc 'vàng' của lá tạo nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất tinh tế, 'lá vàng' với 'sóng biếc', tốc độ 'vèo' của lá bay tương ứng với mức độ 'tí' của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến.
Hai câu mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có chiều cao của bầu Trời 'xanh ngắt' với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc Trời thu là 'xanh ngắt'.
'Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao'
(Thu vịnh)
'Da Trời ai nhuộm mà xanh ngắt'
(Thụ ẩm)
'Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt'
(Thu điếu)
'Xanh ngắt' là màu xanh mang đậm chiều sâu. Bầu trời thu không mây, màu xanh ngắt thăm thẳm. Màu xanh ngắt kết hợp với sự lặng lẽ của không gian, tình cảm của nhà thơ, của ông lão câu cá. Ông lơ đãng nhìn xung quanh làng quê. Dường như mọi người đã rời đi. Xóm làng yên bình, hoàn toàn vắng bóng người qua lại:
'Ngõ trúc quanh co khách vắng teo'
Khung cảnh yên bình, hòa quyện với nỗi buồn cô tịch, hiu quạnh. Người câu cá như đắm chìm trong giấc mộng thu. Tất cả, từ 'ao thu lạnh lẽo' đến 'chiếc thuyền câu bé tẻo teo', từ 'sóng biếc' đến 'lá vàng', từ 'tầng mây lơ lửng' đến 'ngõ trúc quanh co' xuất hiện với đường nét, màu sắc, âm thanh,... đôi khi mang chút buồn bâng, nhưng vẫn gần gũi, thân thiết với mỗi tâm hồn Việt Nam. Phong cảnh mùa thu quê hương sao đẹp đến thế!
Ý vị của bài thơ 'Thu điếu' hiện rõ trong hai câu kết:
'Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo'
Trong thế giới mộng mơ của người câu cá, 'Tựa gối ôm cần' trở thành biểu tượng của tâm hồn nhẹ nhàng, thoát khỏi những áp lực vật chất. Âm thanh của 'cá đâu đớp động' như là giọng nói của chính bản thân tâm hồn, từ xa lạ và huyền bí. Nhà thơ, người câu cá ẩn sau những từ ngữ, không chỉ là người đưa câu chuyện về cuộc sống mà còn là người chứng kiến bí mật của thế giới nội tâm.
"""""--- KẾT THÚC """""-
Tác phẩm 'Câu cá mùa thu' nổi tiếng như một nguồn cảm hứng không ngừng trong các đề thi và bài kiểm tra Ngữ văn lớp 11. Việc tham khảo bài văn mẫu phân tích Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến không chỉ giúp hiểu sâu hơn về tác phẩm mà còn mở ra những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật và tâm hồn trong thơ ca.