Có những tác phẩm văn chương trường tồn, khi nó trở thành bằng chứng lịch sử, gắn liền với niềm vui và nỗi buồn của một dân tộc. 'Chạy giặc' của Nguyễn Đình Chiểu là một bài thơ như vậy. 'Chạy giặc' là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học yêu nước chống Pháp trong nửa sau của thế kỉ XIX.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành phố Gia Định. Trước sự xâm lược, Nguyễn Đinh Chiểu đã sáng tác bài thơ 'Chạy giặc'. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau của dân tộc, căm hận và lên án tội ác của quân Pháp xâm lược, đồng thời thể hiện lòng thương xót với nhân dân:
“Thương nhau, nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút hỗn độn
Rời bỏ nhà cửa, lũ trẻ lạc lõng chạy trốn
Mất đi tổ chim liệng bay lung lay.
Sông Đồng Nai cạnh tranh ngói, phủ màu của mây.
Hỏi chốn dọn dẹp nơi đâu vắng,
Làm sao để dân chịu khổ này?”
Hai câu đầu tiên chỉ ra tình hình bi thảm của đất nước vào thời điểm đó. “Tiếng súng Tây' vang lên khi chợ tan. Điều này có nghĩa là trước khi súng nổ, chợ vẫn đang hoạt động bình thường. Cuộc sống êm đềm, yên bình. Khi chợ tan là lúc mọi người bắt đầu tập trung về gia đình. Trẻ em đợi cha mẹ, con cháu đợi ông bà, cảnh sum họp ấm áp sẽ diễn ra tại mỗi nhà với những món quà giản dị như củ khoai, bánh đúc ngô, mía, bỏng rang... Mọi người sẽ quây quần quanh bàn ăn với canh chua, cá kho, hoặc thậm chí chỉ là “râu tôm nấu với ruột bầu'... Tiếng súng Tây bất ngờ nổ ra, gay gắt và kinh hoàng.
Súng Pháp ngày ấy thực sự ghê gớm: “súng giặc đất rung'. Khi nghe thấy tiếng súng, kẻ thù đã đến gần. “Vừa nghe” là bàn cờ thế đã bị hỏng “trong phút sa tay”. Thất bại đến quá nhanh. Thời gian ngắn bỗng trở nên đột ngột, bất ngờ và căng thẳng. Thay vì cảnh sum họp ấm áp là cảnh chạy trốn:
“Rời nhà, đám trẻ lạc lõng chạy,
Mất tổ chim dáo dát bay.'
Nhà thơ lựa chọn tinh tế hai đối tượng lũ trẻ, đàn chim để miêu tả cảnh loạn trốn khi giặc xâm nhập. Đảo ngữ được sử dụng để tôn chỉ 'bỏ nhà' và 'mất tổ' tạo nên nỗi đau đớn của cảnh chạy trốn của dân làng. Lũ trẻ - bỏ nhà, đàn chim - mất tổ.Các em bé yếu đuối, cần sự che chở, bảo vệ bỗng chốc bị cuốn vào cuộc chiến gay gắt. Những đứa trẻ non nớt nên trở về bên gia đình, mẹ cha, nhưng chúng như bầy chim bon bay, chạy hoảng loạn giữa bầu trời ngập khói lửa.
Từ những đối tượng nhỏ bé, thân thuộc, nhà thơ mô tả rộng lớn không gian, thời gian cụ thể:
“Bến Nghé dưới dòng tiền tan bọt nước,
Sông Đồng Nai cạnh tranh ngói nhuộm màu của mây. ”
Còn nơi Bến Nghé, Đồng Nai xưa kia trù phú nhộn nhịp của miền Nam. Tài sản mất mát, nhà cửa thiêu cháy, con cái lạc cha mẹ, và chắc chắn sẽ không thoát khỏi nỗi đau thương:
“Đau lòng mẹ già ngồi khóc con,
ngọn đèn khuya le lói trong buồng.
Não nề thay chồng yếu tìm vợ,
bóng tối dần bò trước cửa.”
Ai ai đều thấu lòng đau đớn! Với trái tim yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, đau lòng gấp ngàn lần. Ông nêu câu hỏi và cũng là lời trách móc chỉ trích những người có quyền lực, trách nhiệm trong triều đình:
“Hỏi trang dọn dẹp loạn rối ở đâu vắng,
Làm sao để dân chịu khổ này?'
Không chỉ là câu hỏi gay gắt và lời chỉ trích nghiêm khắc các quan lại triều đình. Câu thơ còn là tiếng khóc của người yêu nước, bi thương vì không thể giúp đỡ dân trong cơn loạn lạc.
Bài thơ nhỏ nhưng tóm gọn một phần lịch sử của dân tộc và thể hiện lòng yêu nước thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.