Có những tác phẩm văn học bất tử khi trở thành bằng chứng lịch sử, chúng kết nối với niềm vui và nỗi buồn của một cộng đồng dân tộc. Bài thơ “Chạy giặc' mang ý nghĩa đặc biệt như thế.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước tình hình xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc”. Bài thơ này viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của cả dân tộc, tỏ lòng căm hận với tội ác của quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương yêu nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
……………………………..
Tại sao lại để những người dân vô tội gánh chịu nỗi khốn khó này?'
Hai câu đề nghị một tình hình bi thảm của quê hương chúng ta vào thời điểm đó. Kẻ thù Pháp đã bắn phá để chiếm đóng thành phố Gia Định. Trận chiến diễn ra như “một bàn cờ' phút chốc thay đổi không ngờ “phút mất cơ hội'. Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay địch, tiếng thơ vang lên như một lời than thở:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ phút mất cơ hội. ”
Các từ ngữ như: 'nghe tiếng súng Tây', “phút sa tay' được sử dụng để nhấn mạnh thời gian và sự kiện diễn ra nhanh chóng, bất ngờ, thể hiện nỗi kinh hoàng của nhà thơ và nhân dân khi Gia Định bị giặc Tây tấn công. 'Một bàn cờ thế” là một biểu hiện tượng trưng, biểu đạt ước mong và đau thương về tình hình chiến trường, tình hình chiến tranh trong thời gian đó (1859).
Câu 3 và 4 của bài thơ mô tả cảnh chạy trốn, bị giặc đuổi theo trong tình hình kinh hoàng của nhân dân. Các từ như: “rời nhà', “chạy mất chỗ', “mất tổ”, “bay xa xăm' miêu tả sự tàn phá, nỗi sợ hãi, kinh hoàng. Nhà thơ sử dụng hình ảnh con người là “lũ trẻ', hình ảnh thiên nhiên là “đàn chim', hai hình tượng này thể hiện đau thương của nhân dân trước bi kịch của quê hương bị xâm lược:
“Rời nhà lũ trẻ chạy mất chỗ,
Mất tổ đàn chim bay xa xăm. ”
Sử dụng phép đảo ngữ để đặt vị ngữ trước chủ ngữ nhằm làm nổi bật các từ “rời nhà' và “mất tổ', tạo ra một cảm giác ám ảnh và bi thương về tình cảnh chạy trốn của nhân dân.
Hai câu số 5 và 6 so sánh nhau, khắc họa hai cảnh tang thương đau đớn tại Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm trước, Bến Nghé là nơi sầm uất, đầy đô hội, đặc biệt là trên bến dưới thuyền buôn bán sôi động. Còn Đồng Nai là vùng đất nổi tiếng với lúa miền Nam. Tuy nhiên, chỉ trong nháy mắt, chúng ta đã thấy giặc Pháp đến và bắn giết, phá hủy, cướp bóc một cách dã man. Tài sản của người dân bị chúng cướp đoạt hết, để lại chỉ còn “tan bọt nước” . Nhà cửa, phố phường, làng xóm của người dân bị quân xâm lược đốt cháy tan hoang. Khói lửa bao phủ một khu vực lớn, tạo thành “nhuốm màu mây”. Nhà thơ chỉ dùng hai hình ảnh mà thôi, nhưng đã gợi lên nhiều cảm xúc: 'của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây' đã thể hiện sự căm hận của nhân dân đối với tội ác của quân xâm lược. Vần thơ đầy đau buồn và nỗi căm thù:
'Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. ”
Tội ác của quân giặc không thể nào diễn tả hết! Nhà thơ hóa như than thở, kêu gọi nỗi uất hận trước tội ác tàn bạo của giặc Pháp:
“Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
Đen đủi bốn phía bao phủ;
Ông bà ta vẫn ở Đồng Nai đất xưa,
Người nào cứu được một phần quê hương ”
(Dựa trên bài văn tế của nghệ sĩ Cần Giuộc)
Sau khi chiếm thành Gia Định, quân Pháp xâm chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Một diện rộng lớn của đất nước ta bị chìm trong biển máu. Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu, tức giận viết văn khi nghe tiếng kèn của kẻ thù:
'Tiếng kèn tò te vang cả ba phía,
Âm thanh xâm nhập vào tai lòng đầy xót xa.
Sông Rồng uốn khúc, mịt mù khói bao phủ,
Thành Phụng vắng hoe, ủ mộng hoa đau buồn... ”
(“Cảm nhận”)
Hai câu kết, cảm xúc đầy nghẹn ngào trào dâng, thể hiện tâm trạng đau đớn, lo lắng. Lo lắng cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị quân Pháp bắn giết, phá hủy một cách dã man. Lo lắng cho tương lai u ám của đất nước. Câu hỏi tự hỏi thể hiện lòng thương xót với những người dân đang phải chịu đựng nỗi đau đớn từ cuộc xâm lăng:
“Câu hỏi trang dẹp, loạn rối nay đâu có điểm tươi sáng,
Để những người dân vô tội gánh chịu nỗi khốn khổ này?”
“Bài thơ Chạy giặc” là một bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù đối với quân giặc Pháp và thể hiện lòng thương xót với nhân dân trước cuộc xâm lăng đầy đau khổ. Những hình ảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng súng Tây), nhìn thấy, cảm nhận (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực, mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ “Chạy giặc” là một bằng chứng về tội ác của quân giặc Pháp trong những ngày đầu họ xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ sắc bén, trang trọng, chứa đựng tình cảm sâu sắc, bài thơ thể hiện tâm hồn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu. Nó thể hiện sự nhạy cảm với vấn đề chính trị của nhà thơ yêu nước “đâm vào đầu lũ giặc bằng cây bút không nhuốc”. Với ông, “thơ là vũ khí là thanh gươm'. (“Đọc thơ của Đồ Chiểu' - Lê Anh Xuân)
Chuyến du lịch của tôi