Trong bài viết về Hồ Chủ tịch, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh về tình cảm giàu có của Người, là động lực cho sự nhiệt huyết cách mạng. Người dành nhiều tình cảm cho nhân dân, cho mọi người, thể hiện tình thân thiết với gia đình. Bài thơ Chiều tối khắc họa một phần của ước mơ về tổ ấm, nơi nghỉ ngơi sau những chặng đường xa xôi…
Chiều tối là bài thơ thứ ba mươi mốt trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ khi phải trải qua những ngày tù tội. Trên đường đày, một chiều, Người bắt gặp những cánh chim chiều về tổ.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Câu thơ không chỉ mô tả cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Làm thế nào để biết chim đang mệt mỏi, và làm sao có thể chắc chắn rằng chim muốn tìm nơi nghỉ ngơi trong rừng, như thể hiện qua dòng thơ? Câu thơ chỉ là dấu hiệu của buổi chiều đã tới, khi mọi thứ ban ngày đã mệt mỏi và cần tìm nơi nghỉ ngơi. Câu thơ tương phản với hình ảnh chòm mây cô đơn dưới đất.
Chùm mây bay nhẹ giữa không trung.
Câu thơ dịch ra đẹp nhưng ý nghĩa của thơ không sâu bằng tiêu chuẩn chữ Hán. Nó bỏ qua từ cô trong cô vân, nghĩa là chòm mây cô đơn, cô đơn có ý nghĩa sâu sắc. Hai từ
Còn mạn mạn là hình ảnh của việc trì hoãn, chậm rãi. Chòm mây cô đơn di chuyển từ đây sang đó, nhưng lại di chuyển chậm rãi, trì hoãn, không biết bao giờ mới đến nơi? Và rõ ràng, khi đêm tới, nó vẫn còn bay lơ lửng giữa không trung như là hình ảnh ẩn dụ về người tù đang bị dẫn đi trên con đường xa vạn dặm, chưa biết điểm đến! Trong hình ảnh ấy chắc chắn còn chứa đựng tình cảm cô đơn, sự lo lắng và mong muốn tìm một mái nhà. Chỉ hai câu thơ đã diễn tả cảnh vật, con người và tình cảm con người. Đó là sức mạnh, sự dư thừa của thơ cổ điển.
Nếu hai dòng đầu đã nói về chim mệt mỏi bay về rừng tìm nơi nghỉ và chòm mây cô đơn không biết dừng lại ở đâu, thì hai câu thơ sau trong bài thơ hiện ra một nơi nghỉ cho con người:
Em gái làng quê xay ngô vào buổi tối
Bếp lò đã đỏ rực sau khi xay xong than.
Trong bản dịch, người dịch đã thêm từ 'tối' một cách rõ ràng, trong khi thi pháp thơ cổ điển mong muốn người đọc cảm nhận chiều tối mà không cần một lời nhắc nào. Điều đó làm lộ tứ thơ. Nhưng đó cũng là thách thức của người dịch.
Điều đáng chú ý là một hình ảnh đời sống gia đình đầy bình dị: Em gái làng quê đang xay ngô, sau khi xong việc, bếp lửa đã đỏ rực. Em gái và bếp lửa đều là biểu tượng của gia đình. Việc xay ngô xong và bếp lửa sáng đỏ lại là biểu tượng cho lao động và nghỉ ngơi. Một không khí ấm áp dành cho người lao động đang trên đường đi.
Điều đáng chú ý thứ hai là trong nguyên tác, 'đỏ' biểu thị sự ấm áp, nồng nhiệt, không phải màu sắc đỏ, chứng tỏ nhà thơ nhấn mạnh sự ấm áp, không phải ánh sáng đỏ. Bếp lạnh, tro tàn là biểu tượng cho sự cô đơn, lẻ loi.
Điều đáng chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở nơi cao, gần như là bên cạnh. Hơn nữa, nhà thơ phải đứng lâu mới có thể nhìn thấy cảnh thời gian trôi qua trong câu thơ: Em gái làng quê xay ngô hạt – Ngô hạt xay xong bếp đã đỏ. Đây chỉ là một bài thơ trên đường. Vậy nên, đó chỉ là một tưởng tượng trong tâm trí, trước một ngôi làng quê ven đường, hiện ra như là biểu tượng của gia đình, nơi gặp gỡ của những người thân thương. Mặc dù không phản ánh ánh sáng màu hồng lạc quan của cách mạng như một số người hiểu, nhưng vẫn là một tình thương ấm áp, giúp giảm bớt nỗi cô đơn, yên bình. Cùng với hình ảnh đó, hiện lên một ước mơ về mái ấm gia đình. Nếu chú ý đến bài thơ trước đó là bài Đi đường:
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao chồng chất.
Một con đường không có điểm dừng, và sau đó là bài Đêm ngủ ở Long Tuyền, Đôi ngựa, ngày đi không ngừng nghỉ, món Gà năm vị: thường ăn vào buổi tối; cỏ rét dư thừa, rệp xâm chiếm, oanh sớm, mừng nghe tiếng hót từ xóm láng giềng. Nhìn vào đó, chúng ta có thể hiểu thấy mối quan hệ thân thiết giữa trái tim cách mạng và cuộc sống hàng ngày của người dân.
Nghệ thuật của bài thơ là một nghệ thuật gián tiếp cổ điển, dùng cảnh vật để diễn đạt cảm xúc. Hình ảnh trong thơ cũng là tâm trạng. Nếu chỉ nhìn vào nó như một bức tranh hiện thực đơn giản, chúng ta sẽ lạc hậu so với thế giới tâm linh phong phú của nhà thơ.
Qua bài thơ Chiều tối, từ phong cảnh thiên nhiên, từ hình ảnh cuộc sống hàng ngày của con người, chúng ta thấy sự tinh tế trong tâm hồn của Hồ Chí Minh. Đó là một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tinh thần lạc quan luôn đi kèm với lòng nhân ái và tình yêu thiên nhiên sâu sắc của người chiến sĩ, đồng thời cũng là một nhà thơ vĩ đại. Về mặt nghệ thuật, cách mô tả thiên nhiên tinh tế và đơn giản, phối hợp với cách mô tả tâm trạng, tạo ra sự kết hợp hoàn hảo giữa phong cách cổ điển và hiện đại trong từng câu vần, từng hình ảnh thơ, tạo ra một tác phẩm xuất sắc mang dấu ấn sâu sắc của vị lãnh tụ lừng danh Hồ Chí Minh.