Nội dung: Phân tích bài thơ Chợ Đồng
Kết quả:
Nguyễn Khuyến, danh xưng là nhà thơ tài năng của dân tộc, là người trồng cây nghệ thuật thơ làng quê Việt Nam. Trong hơn 70 năm sống, ông dành hơn 40 năm gắn bó với làng quê, nơi mà những con trâu, ruộng đồng, củ khai củ sắn không phải ai cũng để ý. Ít nhà thơ nào có khả năng chuyển tả hình ảnh dân dã vào thơ như ông, tạo ra những tác phẩm tinh tế, sâu sắc. Bài thơ Chợ Đồng là minh chứng, là nơi Nguyễn Khuyến gửi gắm nỗi xúc cảm sâu xa và nỗi đau của một tâm hồn yêu quê hương đất nước tha thiết.
Sau khi rời bỏ cuộc sống nhiễu nhương, Nguyễn Khuyến quay về quê nhà, làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng ông có chợ Đồng, mỗi tháng họp chín phiên, đặc biệt trong những ngày tết lại có ba phiên chợ tết. Phiên chợ tết thường đông vui và náo nhiệt, nhưng đến những năm đói kém và thiên tai, chợ trở nên vắng vẻ. Thậm chí, sau sự xâm lược của thực dân Pháp, chợ Đồng ngừng hoạt động hoàn toàn, làm cho giá trị văn hóa lâu dài của nó bị lãng quên. Hai câu đầu của bài thơ như là lời tác giả tự hỏi về người làng đi chợ phiên về và đồng thời thể hiện sự lo lắng của bản thân:
'Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?'
Làm sao ông hỏi như vậy? Và từ 'Năm nay' lại làm thế nào? Cảm nhận từ ngữ dè dặt, giọng thơ chậm rãi, như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm, tất cả đều là dấu hiệu rằng năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui. Có thể là năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng gặp khó khăn, và chẳng ai quan tâm đến chợ Tết. Hai câu thơ chứa đựng nhiều nỗi buồn, thấu hiểu cho cuộc sống khó khăn, đau đớn của những người nông dân. Nó là biểu hiện của một nhà trí thức gắn bó với niềm vui và nỗi buồn của nhân dân trong làng quê khốn khổ.
Chuyển sang hai câu thơ thực, Nguyễn Khuyến lại đặt một câu hỏi ngập tràn tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, hình bóng vắng lặng của những ngày giáp Tết, nơi không khí thấp thoáng đìu hiu, buồn bã.
'Trời mưa bụi còn làn da rét,
Uống rượu tường đền được bao nhiêu ông?'
Xuân về, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương. Những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt, nhưng ai đã đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết rằng nó cũng không tầm thường, làm ướt áo người như thế nào. Thứ mưa bụi kèm theo gió đông nhẹ, khiến cho không khí trở nên 'hơi rét', đốt lửa lạnh ngay cả trong lòng người. Ngẫm lại khi đứng dưới cơn mưa bụi, ai còn nhớ được sắc đỏ của pháo Tết? Mọi người đều muốn trốn trong nhà, đường phố trở nên vắng vẻ, đặc biệt là đối với một cái Tết ở làng quê nghèo. Thế rồi, giữa tất cả, vẫn có một cụ già, với cái gậy cũ, từng bước đi kiếm lại những giá trị văn hóa quý báu. Ông quay về với những người bạn già, nhưng năm nào rượu cũng trở thành nỗi buồn vì chẳng còn những người bạn quen thuộc. Một nhà nho chân chính, giờ phải sống lưu vong với sự lạc lõng và cô đơn, cảm giác xót xa và cô quạnh đến lòng thi sĩ.
'Hàng quán vắng tanh, tiếng xáo xác,
Nợ nần năm hết, hỏi lung tung.'
Sau đó, nhà thơ già bỗng nghe thấy những âm thanh mới, hy vọng rằng đó là tiếng hân hoan, sự vui mừng của ngày Tết. Thế nhưng, âm thanh đó không phải là niềm vui mà là tiếng xáo xác hỗn loạn. Đó là âm thanh của chủ nợ đòi nợ, tiếng con nợ khát tiền, lời nói qua tiếng lại tạo nên bức tranh khổ sở, đau đớn của người dân tại chợ Đồng. Mỗi người đều mang theo nỗi đau riêng, người không đòi được tiền cay đắng, giận dữ, người mắc nợ lại đầy xấu hổ và đau đớn. Thấy vậy, Tết ở đây không còn là thời điểm để vui mừng, mà là dịp mọi người nhận thức sâu sắc về nghèo đói, khốn khó của những người nông dân xưa, phải đối mặt với nỗi lo âu từng ngày lo miệng ăn, không còn nói đến niềm vui của Tết.
'Dăm ba ngày nữa, tin xuân về.
Pháo trúc ở nhà nào cũng vang lên một tiếng động.'
Sau khi phiên chợ kết thúc, nhà thơ trong nỗi buồn sâu sắc, tính toán rằng chỉ còn vài ngày nữa là Tết lại về. Ông sống trong lo âu cho cuộc sống khó khăn của nhân dân, mong mọi người có một cái Tết ấm áp, hạnh phúc, không phải là cảnh tiêu điều và xáo xác như trước. Tiếng pháo nhà ai đột ngột vang lên 'đùng', đánh thức những người đang trong nỗi buồn, làm tan biến nghèo đói, làm tan biến cái lạnh của mưa bụi rét mướt. Tuy nhiên, không biết pháo đó thuộc về nhà nào, liệu âm thanh kỳ diệu đó có thực sự hay không, Nguyễn Khuyến không thể xác định. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc giữa không gian những ngày cuối năm càng khiến tăng thêm nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong tâm hồn của thi sĩ.
Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến không chỉ là một tác phẩm xuất sắc, với nguyên liệu làng quê dân dã mà còn là một tác phẩm thể hiện sâu sắc tâm hồn nồng thắm của nhà thơ. Khuyến đã khám phá sâu hơn vào những cảnh vật, những âm thanh vốn rất bình thường, mang đến nhiều tầng cảm xúc hơn, đó là sự buồn bã lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự đau đớn trước cảnh cơ hàn. Cuối cùng, hơn cả, đó là tấm lòng yêu thương nhân dân, yêu thương đất nước một cách sâu sắc, mong rằng toàn bộ dân tộc có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no hơn, đặc biệt là trong những ngày sắp đến Tết.