Bước như sóng biển vỗ về, nắm giữ những tàu thuyền lênh đênh, bài thơ đi sâu vào tâm hồn con người một cách nhẹ nhàng và tinh tế, từ đó mở ra những vẻ đẹp của cuộc sống đa dạng. Thơ là âm nhạc muôn thuở, đưa ta vào không gian mới, thoát khỏi hiện thực u tối để bay về ngày mai rạng rỡ hơn, hoặc đưa ta trở về những ký ức tươi đẹp trong quá khứ. Nhưng làm sao để nghe thấy âm nhạc đó, khi nó chỉ là những dòng mực vô tri trên giấy trắng, không, nó không chỉ là dòng mực, mà là ngôn từ nghệ thuật. Nhà thơ Viên Mai đã từng nói: “Chỉ có lời thơ tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho người đọc cảm kích và phấn khích, còn những lời thơ thẳng thắn, chân thành, bình thường, cũ kỹ có thể làm ai cảm thấy hứng thú không?”, là một nhà thơ có tầm hiểu biết, Viên Mai đã hiểu được tầm quan trọng của ngôn từ nghệ thuật trong bất kỳ tác phẩm nào, bởi nó không chỉ là cách để nhà thơ truyền đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình đến với độc giả mà theo một cách kỳ lạ nào đó từ những dòng chữ đó, người đọc lại có thêm những suy nghĩ khác theo cảm xúc của mình. Hiểu được những điều kỳ diệu mà ngôn từ mang lại, nhà thơ Lê Đạt đã có cái nhìn sâu sắc nhất về vấn đề qua tác phẩm “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt (1929-2008), tên thật là Đào Công Đạt, quê gốc ở tỉnh Bắc Giang. Ông là nhà thơ luôn có ý thức tìm kiếm, đổi mới, đề cao giá trị lao động tinh thần và từng tự nhận mình là “phu chữ”. Bao nhiêu nhà thơ trên thế giới ao ước một lần hiểu được ý nghĩa của thơ, để trả lời cho câu hỏi: “Thơ là gì?”. Lê Đạt cũng như vậy, suốt cuộc đời ông sống vì thơ, vì ngôn từ, ông đối thoại với những dòng thơ như đối thoại với chính mình. Thơ hiện lên trong tâm thức ông không chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một loại “hình bóng của chữ” mà còn chứa đựng những lo âu, suy tư của ông về thơ. Với ông, thơ như một loại tôn giáo, một loại duyên số. Như Đặng Tiến đã nói: “Người ta thường so sánh nhà thơ với sợi tơ, Lê Đạt tự xem mình như một chiếc lá dâu, còn lại trơ gân, thân xác”. “Không một nhà thơ nào không phải trải qua những khoảnh khắc tuyệt vọng muốn từ bỏ việc viết thơ để làm công việc khác để cho nó khoẻ mạnh hơn. Nhưng viết thơ là một nghề, một tình yêu nồng nàn”, đối với ông, thơ là một nghề nghiệp mà cả đời ông không thể buông bỏ, ông tự xem mình là kẻ phu chữ, suốt cuộc đời phải liên tục làm việc với từng chữ một để chúng trở nên tinh tế và tuyệt diệu nhất có thể để làm nguyên liệu cho những tác phẩm nghệ thuật sáng tạo của mình. Đối với ông, chữ không chỉ là một biểu tượng giao tiếp mà còn là một sinh vật sống động, là một cách để nhà thơ thể hiện quan điểm về cuộc sống. Sự tuyệt vời của thơ luôn hiển lộ qua chữ. Và sự tuyệt vời của chữ chính là sự tuyệt vời của thơ. Lê Đạt đặt ra một yêu cầu rất cao với nhà thơ: “Nhà thơ không nên coi thường chữ như một cái gì đó vô tri, không sinh lực, như những công cụ bị loại bỏ khi chúng không còn hữu ích nữa, mà cần phải tôn trọng chữ như những sinh vật có linh hồn, lắng nghe giọng nói của chữ và trò chuyện với chữ như những người ngoại cảm lắng nghe và nói chuyện với thế giới bên kia.”.
Từ những khám phá ban đầu của văn bản, ông đã đặt ra những luận điểm của mình. Đối với văn xuôi, đó là “Ý trong lời”, việc sử dụng từ “trong” lặp lại có ý gì không, không, đó là sự sáng tạo của tác giả. Ông tin rằng đối với những tác phẩm văn xuôi, truyện thơ, kí, … chỉ cần đọc từ đầu đến cuối, từng câu từng chữ và hiểu nó, chúng ta sẽ nhận ra được ý nghĩa sâu xa bên trong mà nó muốn truyền đạt đến người đọc. Nhưng đối với thể loại thơ thì khác, đó là “Ý nằm trong lời nói”, có nghĩa là người đọc thơ chỉ cần đọc từng câu thơ thì không thể hiểu hết những gì mà người viết thơ muốn nói, thêm vào đó, mỗi người đọc thơ còn có thể sáng tạo ra nhiều ý nghĩa phong phú phù hợp với cảm xúc của mình, hoàn toàn khác với ý định ban đầu của nhà thơ, Lê Đạt đã cho thấy sức mạnh kỳ diệu của ngôn từ nghệ thuật trong thơ ca. Thơ thường không thể hiện ở những điều được viết ra mà là ở những khoảng trống, những lúc im lặng giữa các từ. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được chọn lọc từ cảm xúc, tinh tế và sàng lọc, đạt đến độ tinh tế, vì vậy có sự đa dạng về ý nghĩa cũng như cách hiểu. Vì những đặc tính đặc biệt đó, việc lắng nghe và hiểu biết của người đọc là quá trình giải mã để khám phá những vẻ đẹp đầy bất ngờ và tinh tế của thơ ca, người đọc không chỉ cảm nhận được sức mạnh, sự nhạy cảm và sự đồng cảm với tác giả mà còn là một cách để đến gần với thơ. Lê Đạt đã nói:
“Trên bầu trời là những đám mây xanh
Ở giữa là mây trắng, xung quanh là mây vàng
Ước gì ta có thể nắm bắt được nàng…”
Thơ muốn chạm đến đáy lòng, truyền cảm xúc vào suy nghĩ, không chỉ nhìn vào chữ mà còn hiểu ý định của tác giả trong dòng thơ này, làm thế nào có thể có cả mây trắng, xanh rồi vàng, rồi liên kết với ta và nàng, mỗi người đã tìm ra câu trả lời riêng của mình, đó là sức mạnh tinh tế của thơ ca đối với tâm hồn người đọc, thật kỳ diệu. “Con đường của thơ là con đường dẫn vào tình cảm, không uốn cong, qua những chướng ngại, những trung gian, những dấu chấm. Văn xuôi kéo lôi người như dòng nước, đưa chúng ta qua từng bước, từ điểm này sang điểm khác. Thơ, ngược lại, chỉ lựa chọn một số điểm cụ thể, tập trung vào những điểm đó thì toàn bộ cũng sẽ di chuyển theo” – Nguyễn Đình Thi. Như Trần Nhựt Tân đã nói: “Ngôn ngữ thơ là một ngôn ngữ mang nghệ thuật dư dả”.
Lê Đạt tỏ ý “ghét” với quan niệm kỳ lạ: “Các nhà thơ Việt thường chớm già sớm nên cũng chấm dứt sớm”, ý kiến này chỉ ám chỉ những nhà thơ được phú cho, ban cho mình khả năng “thở ra thơ”. Nhưng mà nếu đã được ban cho, cũng sẽ phai nhợt nhạt, rồi một ngày nào đó khả năng đó cũng sẽ tàn phai đi, vậy những nhà thơ đó sẽ còn lại gì nếu không là người thực sự làm việc nghệ thuật với mồ hôi của mình. Vì vậy, ông tôn trọng những nhà thơ “một nắng hai sương, chăm chỉ, đầy nhiệt huyết trên cánh đồng giấy, đổi mồ hôi lấy từng hạt chữ”. Ông lại đánh giá cao thể loại thơ gắn liền với cảm xúc phát ra, “nảy lên tự nhiên”, việc viết thơ mà không cần phải cố gắng, của những nhà thơ thiên tài, nhưng cái phút tự nhiên ấy có thể tồn tại lâu dài với thời gian hay chỉ là nhất thời, phải nhường chỗ cho những nhà thơ chân chính làm việc chăm chỉ với mồ hôi của họ như ông đã từng nói, những thứ đó chỉ là tạm thời, không thể so sánh với những người như ông và các nhà thơ có cùng lý tưởng. Sáng tạo thơ là một cuộc hành trình dài và gian khổ, trên con đường ấy không biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt của những người chăm chỉ viết chữ đã phải chảy, nơi đó không có chỗ cho những thứ thơ bình thường, chỉ có những giá trị tồn tại tức thời, phù phiếm. Xem chữ như là một người bạn thân thiết, người bạn ấy không tự nhiên đến với chúng ta hay được ai gọi đến, chúng ta phải tự tìm kiếm. Phải biết lắng nghe và trò chuyện với chữ, đó là đang tương tác với một tri kỷ. Chữ trong thơ đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết của nhà thơ, lựa chọn từ trong thơ cũng là lựa chọn của tình yêu và trách nhiệm với cây bút của mình. Theo Lê Đạt:
“Đối với hầu hết mọi người, chữ chỉ là một phần của cuộc sống
Nhưng với nhà thơ, chữ là tất cả”.
Bởi vì tôn trọng vai trò quan trọng của chữ trong thơ, ông đã khẳng định: “Một nhà thơ có kinh nghiệm là người biết lắng nghe câu từ truyền đạt”. Ông tin rằng: “chữ định hình người làm thơ”, và nhà thơ luôn phải là người duy trì sự chân thành trong việc chọn lựa “giữa nghĩa và hình thức, giữa chữ và hình bóng chữ”. Sự tồn tại của nhà thơ chính là sự tồn tại của chữ trong thơ. Nếu nhà thơ không tạo ra được một phong cách ngôn ngữ đặc trưng, có nghĩa là ông đã mất bản thân mình. Và khi đó, thơ chỉ là một “khoang lạnh lẽo” trong nghĩa trang thơ. Chữ trong thơ, do đó, trở thành một “bằng chứng sống” cho sự hiện diện của thi nhân, là một trong những yếu tố quan trọng nhất, nếu không phải là quyết định, tạo nên phong cách của nhà thơ. Vũ trụ của mỗi nhà thơ được xây dựng từ những đặc điểm ngôn ngữ thơ, mà ngôn ngữ thơ luôn là biểu hiện của chữ. Do đó, theo quan điểm của Lê Đạt, để xác nhận sự tồn tại của mình, “Nhà thơ nên tôn trọng và mở rộng lãnh thổ ngôn ngữ, tương tự như một nhà khoa học mở rộng lĩnh vực nghiên cứu, thay đổi cách nhìn về thế giới”.
Theo Lê Đạt: “Con đường thơ bao gồm nhiều con đường riêng biệt của từng người. Không có một con đường rộng lớn phù hợp cho tất cả mọi người. Ta có thể nói rằng con đường thơ chính là số phận của mỗi nhà thơ”. Mỗi nhà thơ đều có một con đường riêng cho mình, và một khi đã chọn, khó có thể quay lại, hay còn gọi là số phận của họ trong thế giới nghệ thuật khắc nghiệt. Dù chọn hướng đi nào, làm việc với chữ là điều không thể thiếu, là yếu tố cơ bản quyết định thành công của các tác phẩm trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của họ. Do đó, ông tin rằng: “Những câu thơ hay là kết quả của một tâm hồn kiên trì, một trí tuệ đầy nhiệt huyết làm rung động lòng người, không phải chỉ may mắn ngẫu nhiên. Việc viết thơ không phải là cờ bạc, và không ai may mắn trúng số cả đời”. Không có sự thăng hoa diệu kỳ trong quá trình sáng tạo, không thể có những câu thơ xuất sắc. Sáng tạo thơ luôn là sự kết hợp của tiềm thức và tâm linh. Bước vào thế giới của thơ là bước vào thế giới của ảo tưởng, của tinh thần để người nghệ sĩ thể hiện tưởng tượng sáng tạo của mình. Theo ông: “Tuổi trẻ, tuổi già của nhà thơ không phụ thuộc vào tuổi tác, mà phụ thuộc vào sức mạnh của chữ” , Picasso đã nói: “Mất rất nhiều thời gian để trở nên trẻ”. Nhà thơ phải không ngừng cố gắng, cải tiến cách suy nghĩ có thể suy giảm theo thời gian, không ngừng làm việc chăm chỉ để được đánh giá bởi những cử tri chữ trong tương lai, không để mất đi tài năng của mình. Thế giới “ngôn ngữ riêng” này sẽ xác định một hệ giá trị trong vũ trụ thơ của thi nhân. Nó xác định sự tồn tại của nhà thơ trong tâm trí của độc giả cũng như định vị vị thế của nhà thơ trong cộng đồng thơ. Thơ luôn “chống lại nguy cơ hóa cảnh”. Và chỉ khi nhà thơ không để tâm trạng của mình bị hóa cảnh, lúc đó nhà thơ mới có cái nhìn linh hoạt về cuộc sống và thế giới ngôn ngữ của nhà thơ mới phong phú và linh hoạt
Tại sao lại có những lời ca ngợi Hồ Xuân Hương là “Nữ hoàng của thơ Nôm”, hoặc “nữ thơ của dân tộc”, ta cùng khám phá sự độc đáo trong cách sử dụng ngôn từ để xây dựng danh tiếng của mình.
“Bóng tối vang tiếng trống đêm dần buông,
Đôi má hồng hào nổi bật giữa nước non.
Ly rượu thơm mê hoặc, say lại tỉnh,
Trăng lung linh vẻ đẹp chưa tròn tròn,
Lối đi mòn bên đất, rêu phủ kín đám.
Mây vờn chân trời, đá xanh một mảnh.
Phản châu hấp dẫn tâm hồn, tình yêu trọn vẹn!”
(Tự tình II)
Cách bạn sử dụng từ ngữ tiếng Việt truyền cảm, màu sắc, hình tượng phong phú, những động từ thể hiện tâm trạng (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc), những tính từ mô tả trạng thái (say, tỉnh, khuyết, tròn), kết hợp với cách cấu trúc ngôn ngữ sáng tạo nghệ thuật như đối, đảo ngữ, bắt nhịp, Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự bất mãn với cuộc sống và niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi. Đó là cách sáng tạo của bà, tạo nên tên tuổi vẹn tròn và để lại dấu ấn đậm nét trong văn chương.
Qua hàng loạt những luận điểm sắc bén, Lê Đạt đã thể hiện quan điểm về công việc sáng tác thơ của nhà thơ một cách rõ ràng và thuyết phục, mang tính sáng tạo riêng của ông. Những luận điểm ông đưa ra thực sự đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về quá trình làm thơ của những nhà thơ đích thực, từ đó đặt ra những yêu cầu nghiêm túc đối với họ. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự hiểu biết và tận tụy trong thế giới của nghệ thuật, một con người cam lòng với thơ và chữ, đề cao những giá trị nhân văn mà chúng mang lại.
Tác giả đã đưa ra một quan điểm sâu sắc và thú vị: Chữ bề nổi lên nhà thơ, nhấn mạnh tầm quan trọng của chữ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ bề nổi lên nhà thơ là khẳng định vị trí của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là một yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó xác định tài năng và phong cách của nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, là một kiến trúc ngôn ngữ đặc biệt; nó tạo ra và vinh danh vị thế của nhà thơ. Khi nhà thơ chăm chú vào chữ, sẽ có sự lựa chọn tối ưu nhất để diễn đạt ý muốn, để tiếng lòng được phản ánh, được biểu hiện qua từng chữ, âm điệu, nhịp điệu. Làm thơ là sử dụng lời và dấu hiệu thay cho lời nói, tức là sử dụng chữ để thể hiện trạng thái tâm lý đang trải qua nhưng khó diễn đạt bằng lời nói. Làm thơ là đang sống, không chỉ nhìn lại cuộc sống, mà còn làm sống lại một cảm xúc, một nỗi lòng trong lòng người đọc. Bài thơ là một dây tơ hồng cho độc giả, trạng thái tinh thần đó là do độc giả tự tạo ra, chính là khi đọc những chữ, nghe những lời từ đó trái tim độc giả rung động vì chạm vào những ý nghĩa, những cảm xúc mà lời và chữ của bài thơ gợi lên.