Mẫu 1
Chi tiết bài viết:
Không thể tưởng tượng một nhà thơ chân chính nào không có tác phẩm về đất nước, về quê hương. Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi sĩ. Nhưng cảm nhận về đất nước của mỗi người lại mang dấu ấn riêng biệt, xuất phát từ những trải nghiệm cá nhân.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Tuy nhiên, có lẽ trong thơ ca và văn học của ông, cảm hứng về đất nước nổi bật nhất trong bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến 1955, mang sắc thái riêng so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Bài thơ của Nguyễn Đình Thi có thể ngắn hơn, nhưng quá trình sáng tác kéo dài suốt 7-8 năm. So sánh này cho thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống tuôn trào cảm hứng, trong khi Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Nhìn lại quá khứ và đọc kĩ phần đầu Đất nước, ta thấy rõ đây là tình cảm sâu đậm, nung nấu nỗi nhớ và niềm tin yêu của người làm chủ.
Sống và làm việc ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước tiên là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, nơi ông gắn bó với tâm hồn. Hà Nội với hương sắc long lanh trong nắng gió mùa thu.
Sáng trong mát mẻ như năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Nhớ về những ngày thu đã xa.
Sáng se lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài trải hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng nắng vàng rơi đầy
Mùa thu này đã thay đổi,
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc vang lên lời nói thiết tha...
Không có gì ngẫu nhiên khi nói về đất nước là nói về Hà Nội, và khi nói về Hà Nội, lại nói về mùa thu. Đất nước tươi đẹp bốn mùa nhưng mùa thu đặc biệt nổi bật, và mùa thu Hà Nội đẹp nhất. Đặc biệt là mùa thu ở đây đã ghi dấu ấn lịch sử vàng son - 'Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình' giữa 'Tháng Tám mùa thu xanh thẳm' (Tố Hữu). Vì vậy, ngay từ những dòng đầu tiên, ta đã cảm nhận được sự xôn xao trong tâm hồn:
Sáng trong mát mẻ như năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Nhớ về những ngày thu đã xa
Đất nước gắn với nỗi nhớ, bắt đầu từ mùa thu, từ mùa thu đã xa đến mùa thu hiện tại. Rõ ràng, hai mùa thu đang chiếu rọi nhau, làm cho mọi thứ trở nên lung linh hơn trong tâm hồn thi sĩ. Cảm giác 'mát trong' là đặc trưng của mọi mùa thu Việt Nam, đặc biệt là mùa thu Hà Nội.
Điểm riêng biệt giữa hai mùa thu là những kỷ niệm đã xa và những thay đổi của mùa thu hiện tại. Trong những ngày thu đã xa, Hà Nội vẫn 'mát trong' nhưng đầy buồn bã. Phố phường yên tĩnh, lá vàng rơi đầy sân thềm. Gió heo may mang khí lạnh đầu mùa thổi dọc những con phố cổ vắng người. Có một nỗi buồn trang trọng trong khoảnh khắc chuyển mùa, khoảnh khắc chia ly.
Mùa thu này vẫn 'mát trong' như 'sáng năm xưa', nhưng đã khác rồi. Khác ở chỗ 'Người ra đi đầu không ngoảnh lại' của 'những ngày thu đã xa', nay đã đứng 'giữa núi đồi', từ một tầm cao ở chiến khu kháng chiến Việt Bắc để 'nhớ' và 'nghe'. Lòng người đã đổi, gió và âm thanh cũng thay đổi, sắc hương cũng biến đổi:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc vang lên lời nói thiết tha.
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, lời nói cười trong một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô: từ 'tôi nhớ', 'tôi đứng vui nghe'. Tiếp theo đó, mùa thu tiếp tục vang vọng tiếng 'nói cười thiết tha' của 'chúng ta'.
Trời xanh này thuộc về chúng ta
Núi rừng thuộc về chúng ta
Nước chúng ta...
Những từ 'của chúng ta', 'chúng ta' vang lên đầy mạnh mẽ, tự hào, yêu mến, tự hào về một đất nước có chủ quyền, tự hào vì đất nước rộng lớn và giàu đẹp.
Những cánh đồng thơm mát
Những con đường bát ngát
Những dòng sông đỏ phù sa...
Tự hào về truyền thống 'không bao giờ khuất' của cha ông:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Như đã đề cập, Đất nước của Nguyễn Đình Thi được viết từ năm 1948 đến 1955. Phần đầu hoàn thành năm 1948 ('Sáng trong mát mẻ như năm xưa'), phần thứ hai từ 1949 đến 1955.
Nguyễn Đình Thi dường như chờ đợi lịch sử hoàn thành thiên sử thi của dân tộc, rồi viết nốt phần thứ hai này. Vì vậy, dù hướng tới những hình ảnh có tính biểu tượng, lời thơ vẫn phản ánh âm vang của cuộc sống hào hùng của đất nước trong cuộc kháng chiến chiến thắng, có âm vang của phong trào quần chúng cải cách ruộng đất:
Từ gốc lúa, bờ tre hồn hậu
Bùng lên tiếng căm hờn
Có âm vang bước tiến của liên minh công - nông - binh kháng chiến:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Trở thành những anh hùng
Nhưng nếu các biểu tượng khái quát chỉ xuất phát từ sự kiện lịch sử, Đất nước của Nguyễn Đình Thi sẽ không xao động lòng người như vậy. Nhiều biểu tượng đã kết tinh từ kỷ niệm riêng, trải nghiệm của một nghệ sĩ đã sống và lăn lộn trong kháng chiến. Vì vậy, Đất nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều đoạn thơ lấp lánh chất sống của nhà thơ và nhân dân.
Khi ông viết:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Chúng ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện với những nỗi đau riêng, và nỗi đau đó trở nên sâu sắc hơn vì nỗi nhớ xao xuyến. Trong đó có kỷ niệm về buổi chiều hành quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc cào cấu trời chiều.
Ráng chiều đỏ rực, cánh đồng chảy máu. Những chi tiết thực tế đã trở thành biểu tượng đau thương của đất nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời, mà là hình ảnh của mọi thời chiến tranh, không chỉ là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang, mà là hiện thân của mọi vùng quê, mọi đất nước dưới sự xâm lược.
Những hình ảnh đau thương ấy sẽ còn 'nung nấu' những 'đêm dài hành quân' nhưng cũng từ miền đau thương ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp lánh, thao thức. Đó là ánh mắt 'người yêu', nỗi nhớ bồn chồn, và cũng chính là động lực, niềm tin.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, 'nhớ mắt người yêu' là nhớ một ánh sao lấp lánh, thường xuyên xuất hiện (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: 'Nhớ em đôi mắt hay cười', Trong Em bảo anh: 'Tia lửa nơi ta bay lên cao - Trong mắt người yêu thành trời sao', trong Nhớ: 'Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh - Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây'...)
Nhưng đặc biệt ở 'Đất nước', 'Mắt người yêu' gợi lên một nỗi nhớ lớn lao, vượt qua cả tình yêu đôi lứa, vượt qua nỗi nhớ người yêu. Bởi ánh sáng bừng lên trong tâm hồn mang cả nỗi đau, nỗi nhớ, buồn vui, tin yêu hy vọng, cả cái riêng và chung. Bài thơ khép lại bằng cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người tiến lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Cảnh tượng vĩ đại này là biểu tượng khái quát về sức mạnh quật cường của đất nước từ đau thương gian khổ. Nhưng đó là bức tranh sống động. Cảm hứng hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân 'áo vải', 'trở thành những anh hùng' giương cao cờ chiến thắng trên nóc hầm của viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều 7/5 lịch sử.
Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, nhiếp ảnh gia ghi lại, nhưng hiếm có ở đâu gợi lên nhiều ấn tượng như ở đây, với sự rung chuyển như một cuộc trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta, lộng lẫy và sáng chói một 'Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy...' Đó là hình ảnh 'rũ bùn đứng dậy' của Phù Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là cảm hứng riêng về đất nước: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui, nỗi nhớ của người làm chủ, một đất nước đẹp ngay cả trong gian khổ đau thương. Nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần
(Nhớ)
Vì vậy, giữa nhiều bài thơ hay về đất nước của nhiều nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên những câu thơ tuyệt vời của ông về phố Hà Nội, về 'Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều' và về 'Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa'.
Mẫu 2
Phân tích chi tiết:
Đất nước là chủ đề lớn xuyên suốt lịch sử văn học, mỗi giai đoạn đều có cái nhìn khác nhau về đất nước. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp xuất hiện nhiều bài thơ về đất nước với hình ảnh đau thương nhưng anh hùng, trong đó nổi bật là Đất nước của Nguyễn Đình Thi, tác phẩm đánh dấu nhận thức của tác giả về đất nước.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã kết hợp thành Đất nước. Qua cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương nhưng anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, lòng yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân ta trong kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tổng hợp từ nhiều bài thơ nhưng vẫn giữ được tính thống nhất, phát triển theo mạch cảm xúc và tư tưởng nhất quán. Mở đầu là cảm xúc về mùa thu đất nước trong không gian và thời gian khác nhau:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Nhớ về những ngày thu đã xa.
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bất chợt cảm nhận sáng mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi ông ra đi. Trong làn gió thu, thoảng mùi hương cốm mới, gợi nhớ về hương vị đặc trưng của Hà Nội vào thu, gắn với đời sống người dân thủ đô. Nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng dạt dào tuôn chảy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài trải hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Đó là “những ngày thu đã xa” - những ngày thu trước Cách mạng, khi nhà thơ phải rời xa thủ đô lên đường. Viết về mùa thu, nhưng trong thơ Nguyễn Đình Thi không phải sự mơ hồ, lãng mạn của thơ khác; mà là vẻ đẹp nhẹ nhàng, yên bình, đượm chút buồn của thu Hà Nội.
Thu Hà Nội trong thơ ông hiện lên trong hồi tưởng nhưng đầy xúc cảm, tĩnh lặng và buồn man mác. Cảnh thu đất nước trong những năm kháng chiến đầy đau thương: Sương lạnh chớm trong lòng Hà Nội. Thơ Nguyễn Khuyến nói về ao thu “lạnh lẽo nước trong veo” là chính thu, còn Nguyễn Đình Thi nói về đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” gợi cảm nhận về cái se lạnh đầu mùa thu, không phải rét đầu mùa, không phải mát mẻ của mùa hè mà là sự giao thoa của hai mùa.
Chỉ mùa thu Hà Nội mới mang lại cảm giác đặc biệt này. Gió nhẹ lướt trên những con phố dài cổ kính, mới chỉ là “hơi may” đầu mùa. Nghĩa là tất cả chỉ mới bắt đầu, rất nhẹ nhàng nhưng đã tạo sự thay đổi, bước khởi đầu.
Nhà thơ và người Hà Nội nhận ra sự thay đổi của mùa thu. Trong hoàn cảnh đó, người ra đi dù dứt khoát nhưng trong lòng vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra những gì của Hà Nội phía sau: “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Câu thơ có chất nhạc, chất họa trong sự rơi đầy của nắng, lá. Đó là đặc trưng của mùa thu Hà Nội. Màu vàng nắng hòa màu vàng lá tạo nên cảnh sắc vàng ấm áp, xua đi cái lạnh “chớm” của “hơi may”. Khung cảnh làm nền cho tâm trạng hợp lý.
Từ mùa thu năm xưa, nhà thơ đưa vào cảm xúc về mùa thu cách mạng, mùa thu độc lập trong khung cảnh hiện tại chiến khu Việt Bắc:
Mùa thu nay đã khác
Tôi đứng vui giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Nếu bảy câu thơ đầu viết theo thể thất ngôn, gần như trọn vẹn một bài thất ngôn bát cú diễn tả cảm xúc lắng đọng, thì đoạn thơ tiếp theo viết theo thể tự do, thể hiện sự phơi phới, tràn đầy niềm vui. Câu “Mùa thu nay đã khác” là chuyển đoạn, sự khẳng định hay reo vui đầy cảm xúc.
Thiên nhiên được nhân hóa đầy sắc màu, âm thanh và chan chứa tình người. So với mùa thu xưa, điểm khác biệt rõ nhất của mùa thu nay là “vui”: niềm vui của hiện thực khách quan thành niềm vui của chủ thể trữ tình, lan tỏa khắp núi đồi, rừng cây, bầu trời.
Rõ ràng, cảm xúc về mùa thu gắn liền với niềm vui, niềm yêu mến và tự hào làm chủ đất nước. Với con mắt nhà thơ, đất nước tươi đẹp, bát ngát, phì nhiêu và giàu sức sống. Cảm xúc từ trạng thái vui tươi đến sự khẳng định chắc chắn:
Trời xanh là của chúng ta
Núi rừng là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những con đường bát ngát
Những dòng sông đỏ phù sa
Điệp khúc “của chúng ta” ngân vang trong lòng người, khẳng định quyền làm chủ đất nước và tự hào về thành tựu giành lại đất nước từ cách mạng tháng Tám. Những câu thơ là sự khẳng định dồn dập của nhà thơ cũng là của người Việt trước độc lập.
Với mùa thu đẹp hôm nay, tự hào về chủ quyền độc lập trong tay, người ta nghĩ về cội nguồn sâu xa tạo nên thay đổi vĩ đại. Không chỉ là sức mạnh hiện tại mà còn là sức mạnh truyền thống, là bản chất con người Việt gắn bó, hướng đến tương lai, sống thầm lặng, bình dị nhưng anh hùng:
Nước ta
Nước những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng về.
Đất nước của tình yêu, của cội nguồn “con Rồng cháu Tiên”. Đó là một cách cảm nhận về Đất nước. Nguyễn Đình Thi định nghĩa đất nước là đất nước của người anh hùng, anh hùng mọi thời đại, khí phách tinh hoa âm vang hồn thiêng sông núi. Dáng vẻ đất nước khái quát bằng chiều dài lịch sử tâm hồn, khí phách nhân dân.
Nghe tiếng vọng cha ông, hồn thiêng sông núi, trong lòng dâng niềm tự hào về Tổ quốc.
Từ tình yêu và niềm tự hào về Tổ quốc, Nguyễn Đình Thi nghĩ về kháng chiến gian lao nhưng anh dũng, nơi cảm hứng hướng về khẳng định Tổ quốc nhân dân, cách mạng quyết định bằng sức mạnh nhân dân. Đó là quy luật tất yếu – giặc đến xâm lược quê hương, những con người hiền lành thành người căm thù cháy bỏng:
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Bật lên tiếng căm hờn.
Vẫn trong mạch cảm hứng căm thù, ấn tượng nhất là hai câu:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Trong ánh chiều tà, cánh đồng đỏ như chảy máu, hàng dây thép gai đồn giặc tua tủa đâm nát bầu trời. Đó là hình ảnh thực Nguyễn Đình Thi chứng kiến trong hành quân, cách miêu tả gợi cảm với từ cảm thán “ôi”, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho đất nước đau thương trong chiến tranh, lên án tội ác quân giặc.
Cánh đồng quê kia chứng kiến bao cảnh đầu rơi máu chảy, là dấu tích tàn ác giặc gây ra. Chiến tranh đồng nghĩa tàn phá, đau thương, chết chóc. Nhưng vượt lên trên những đau thương, cuộc sống vẫn tiếp diễn, tình cảm con người vẫn dạt dào:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Đó là tâm trạng chung của người lính ra trận. Trong hành trang của họ luôn có nỗi nhớ. Ngoài nhớ người thân, xóm làng, còn nhớ người yêu. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi nhắc về nỗi nhớ ấy, xoa dịu bao đau vì quê hương bị tàn phá.
Nhà thơ kết hợp giữa “tôi” và “ta” rộng lớn. Nói về cái chung để nói đến cái riêng, cái riêng là tình cảm chân thật, đời thường. Những giây phút “bồn chồn nhớ mắt người yêu” là khoảnh khắc yên bình, lãng mạn quý giá trên đường hành quân. Đó là giây phút ấm lòng người lính xa nhà.
Với sức mạnh căm thù, những con người bình dị của nước non này đã chiến đấu với tinh thần bất khuất từ nghìn xưa, sức mạnh gắn bó với đời sống hàng ngày, ước mơ giản dị về quê hương thanh bình – tất cả tạo nên điều vĩ đại:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Chính những người anh hùng áo vải ấy đã “gánh trên vai cuộc kháng chiến thắng lợi”, tạo dáng hình đẹp đẽ của Tổ quốc trong hào quang chiến thắng tương lai:
Ngày nắng đốt đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Bốn câu thơ tái hiện quá trình đi lên của dân tộc, trải qua gian khổ để giành lại độc lập từ giặc. Hiểu được vất vả, thấm thía giá trị độc lập, tự do. Bốn câu thơ theo thể thất ngôn, tạo thành bài tứ tuyệt mang tính sử thi hùng tráng, thể hiện niềm tự hào về lịch sử, con người Việt Nam. Và tất cả cảm xúc dồn nén cuối cùng bùng nổ:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Nhịp thơ ngắn, nhanh như bước chân dồn dập xông lên, thể hiện khí thế, sức mạnh lòng căm thù cao độ. Vũ khí tiêu diệt quân giặc bằng sức mạnh của dân tộc bị áp bức, lấy từ thành ngữ “tức nước vỡ bờ”.
Sức mạnh thần kỳ của đất nước và con người Việt từ kiếp sống nô lệ, đã vượt qua chiến đấu ác liệt để giành chiến thắng sáng chói, vinh quang, như tượng đài lịch sử được nhà thơ khắc họa rõ nét.
Từ chi tiết thực chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ nâng lên thành tư thế dân tộc, khái quát khí phách của cả dân tộc. Nhân dân ta chiến thắng hoàn toàn thực dân Pháp, lật đổ ách thống trị hàng trăm năm. Hòa bình đã lập lại, đất nước hoàn toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do. Bài thơ kết thúc trong tư thế đi lên của dân tộc, người Việt Nam.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc với chất chính luận, hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp phóng khoáng, hình ảnh thơ chọn lọc, ngôn ngữ cô đọng. Ấn tượng sâu sắc nhất là bài thơ thành công dựng tượng đài hùng vĩ về Đất nước, Tổ quốc trong kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Mẫu 3
Phân tích chi tiết:
'Đất nước' là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi, sáng tác và hoàn thành từ 1948 đến 1955, gắn với quá trình phát triển của đất nước. Bài thơ in trong tập 'Người chiến sĩ'.
Bài thơ thể hiện cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc trong cảnh đẹp và anh dũng. Hai câu thơ đầu tiên miêu tả vẻ đẹp đất nước khi mùa thu về:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Nguyễn Đình Thi gợi nhớ bầu trời thu trong xanh, mát mẻ, và hương cốm mới. Cảm xúc trong thơ mở ra nhiều liên tưởng về mùa thu đẹp đẽ của đất nước. Tiếp theo là hoài niệm về 'những ngày thu đã xa':
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
'Chớm lạnh' là cái lạnh đầu thu, làm nên cảnh mùa thu Hà Nội đầy hoài niệm. Người ra đi dẫu không ngoảnh lại nhưng vẫn cảm nhận được vẻ đẹp mùa thu phía sau.
Những dòng thơ thể hiện tài nghệ của tác giả, tạo nên hành trang của 'người ra đi'. Tiếng thơ tựa như tiếng reo, náo nức:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Không gian nghệ thuật là núi đồi chiến khu, rừng tre phấp phới trong gió. Cả bầu trời thu bao la, đầy sức sống. Nhà thơ đứng giữa thiên nhiên, cảm nhận niềm vui mùa thu.
Những câu thơ thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của đất nước, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông biểu lộ nét bền vững của đất nước:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Nhà thơ nêu lên niềm tự hào về quyền làm chủ đất nước, khẳng định ý chí tự cường của quân và dân ta. Các vần thơ bay bổng, mang ý chí cách mạng.
Tiếp theo là suy ngẫm về đất nước và dân tộc, lời thơ vang lên như tuyên ngôn:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng tiếng về.
Các câu thơ ngắn gọn, thể hiện lòng tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Tiếng nói của tổ tiên vẫn vang vọng trong đất đai quê hương, nhắn nhủ con cháu tiếp tục bảo vệ đất nước.
Phần tiếp theo nói về đất nước trong máu lửa:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Các từ ngữ 'chảy máu', 'đâm nát' miêu tả cảnh đau thương của đất nước trong chiến tranh. Người lính hành quân với sức mạnh của lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương.
Những câu thơ tiếp theo khắc họa cảnh tượng hào hùng trên khắp mọi miền đất nước:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng.
Người lính là người nông dân mặc áo lính, những người anh hùng thời đại đã 'đứng lên thành những anh hùng'.
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Con đường ra trận kéo dài hơn ba ngàn ngày khói lửa. Niềm tin vào ngày mai chiến thắng, về đất nước độc lập, hòa bình cháy rực tâm hồn quân dân:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Cuộc kháng chiến kết thúc, đất nước độc lập:
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Nhà thơ vận dụng thành ngữ, tục ngữ để ca ngợi sức mạnh và tư thế chiến thắng của dân tộc. Tác giả cho biết hình ảnh người chiến sĩ Điện Biên xông lên trong những ngày tổng công kích tháng 5-1954.
'Đất nước' là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Đình Thi, thể hiện khái quát, chất trữ tình đằm thắm và chất chính luận sâu sắc. Câu thơ biến hóa tạo nên giọng thơ đa dạng, từ man mác, bồn chồn đến mạnh mẽ.
Hình tượng đất nước vừa hiền hòa trong sắc thu, vừa mang sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến. 'Đất nước' là bài thơ kiệt tác, đầy niềm tự hào dân tộc.