Phân tích Bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cung cấp hướng dẫn chi tiết kèm theo 2 văn mẫu khác nhau rất hay. Điều này giúp bạn có thêm ý tưởng để nâng cao kỹ năng học văn của mình với những bài văn mẫu sáng tạo.

Phân tích Đây mùa thu tới khiến bạn đọc trải qua nhiều cảm xúc đặc biệt. Mọi hình ảnh trong bài thơ, dù về thiên nhiên, nhưng không thể thiếu được hình bóng của phụ nữ. Mỗi đường nét thu được mô tả một cách tinh tế và tài hoa. Dưới đây là 2 văn mẫu phân tích Đây mùa thu tới để bạn tham khảo.
Dàn ý phân tích Bài thơ Đây mùa thu tới
1. Mở đầu
Giới thiệu tác phẩm: Xuân Diệu là một trong những nhà thơ thành công khi viết về mùa thu. Bài thơ “Đây mùa thu tới” mang đến cho người đọc cảm nhận về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn và đầy xúc cảm.
2. Nội dung chính
– Mùa thu đến nhẹ nhàng, không ồn ào như mùa hè. Nó xuất hiện trên những cánh đồng, trong cảnh vật yên bình mà đầy ý nghĩa.
– Mùa thu mang theo cả nỗi buồn và sự phấn khích cho con người. Nhà thơ cảm nhận được điều này qua tiếng reo vui của mùa xuân đã về.
– Nhà thơ có những cảm nhận sâu sắc về dấu hiệu của mùa thu.
– Khung cảnh mùa thu diễm lệ, lãng mạn có thể làm lay động lòng người nhưng cũng đem lại nỗi buồn về sự phôi pha, tàn úa.
– Khung cảnh dịu dàng, lãng mạn nhưng cũng mong manh, mong manh như “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
– Trăng thu, tựa như một con người với những cảm xúc buồn vui, tạo nên sự đồng điệu giữa thiên nhiên và con người.
– Những chuyến đò thường ngày đổi khác khi thu về, trở nên thưa thớt, vắng vẻ.
– Thi sĩ Xuân Diệu cảm nhận mùa thu qua những bước đi của nàng, qua sự rộn rã của chim muông và sự vắng lặng trong lòng người.
- Nỗi buồn của sự chia li được nhà thơ truyền đạt qua hình ảnh cánh chim di cư tránh rét.
- Bầu trời vẫn rộng lớn nhưng u uất, buồn bã vì bị nhuốm màu của sự chia xa.
- Hình ảnh của người phụ nữ đa tình, hoặc chính Xuân Diệu đa tình, đã hòa mình vào mùa thu, để nỗi lòng rơi vào vô thức, theo dòng suy nghĩ xa xăm như những đám mây trôi dạt.
3. Tổng kết
“Đây mùa thu tới” là một tác phẩm xuất sắc của Xuân Diệu về mùa thu, không chỉ vẽ lên bức tranh mùa thu tuyệt vời mà còn truyền đạt những nỗi niềm, cảm xúc của tác giả trước mùa thu và sự biến đổi của thiên nhiên.
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới
'Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo'
Từ lâu, đề tài về mùa thu luôn làm cho các nhà thơ đầy cảm hứng. Nếu 'Thu điếu' của Nguyễn Khuyến dành cho cảnh thu đồng quê bình dị, thì 'Đây mùa thu tới' của Xuân Diệu lại khắc họa một bức tranh thu sống động, ấn tượng, với cảm xúc u sầu, trầm tư của tác giả khi mùa thu về.
'Đây mùa thu tới' được chọn từ tập 'Thơ thơ' phát hành năm 1938, là một trong những đại diện nổi bật của thơ trước Cách mạng. Bài thơ tạo nên bức tranh đất trời với sự u tịch cùng nỗi buồn của người con gái khi thu về.
Mở đầu bài thơ, người đọc ngay lập tức cảm nhận được nỗi buồn, sự vắng vẻ của cảnh vật.
'Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tác giả dùng hình ảnh đầu tiên - 'liễu' để dẫn dắt độc giả. Xuân Diệu chọn 'liễu' làm biểu tượng của mùa thu để diễn tả một mùa thu u tịch nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng của 'nhân vật' này được tác giả xây dựng qua từ 'đìu hiu' - biểu hiện cho sự vắng vẻ, cô đơn. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là trên cả 'rặng' - với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn trở nên chồng chất, lan tỏa. Từ 'đìu hiu', tác giả đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của 'liễu'. Người viết đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để thể hiện hành động của 'liễu' là 'đứng chịu tang'. Lúc này, 'liễu' không chỉ là một thực thể vô tri vô giác mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước 'tang'.
Hình ảnh 'lệ ngàn hàng' gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số từ 'ngàn' để diễn đạt nước mắt của cây liễu. Điều này khiến người đọc tự hỏi về nguyên nhân khiến cho 'liễu' khóc, ai đã ra đi để khiến 'nàng' phải 'chịu tang'. Hai câu thơ này mở ra và tạo sự tò mò cho những diễn biến tiếp theo. Tác giả cũng sử dụng láy âm gần nhau. Liên tiếp ba chữ 'Buồn - buông - xuống' là các âm tiết nửa khép tạo ra cảm giác nỗi buồn chất đầy và âm thanh trầm. Thanh âm từ bằng cao đến bằng thấp khiến câu thơ gợi lên cảm giác nỗi buồn đang 'buông' từ từ, không gấp gáp. Tương tự, tác giả sử dụng láy âm cho ba từ 'tang - ngàn - hàng' cũng là âm tiết nửa khép.
Đi từ bằng cao xuống bằng thấp khiến cho các từ này gợi nên nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống tạo ra sự xót xa, thương tiếc cho 'liễu'.
'Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.'
Niềm vui phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã 'chạm ngõ'. Cấu trúc 'mùa thu tới' thể hiện sự hồ hởi, chào đón 'nàng thu' của thi sĩ. Câu cuối với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với 'phông nền' màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3, diễn đạt được sự chuyển động của nàng thu, thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi sĩ.
Nếu ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa ta đến với cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ thơ tiếp theo Xuân Diệu đi sâu vào chi tiết, rõ ràng hơn trong việc mô tả bức tranh thiên nhiên.
'Trên cành, một đóa hoa đã rơi
Trong vườn, màu đỏ phai xanh thềm
Những cánh lá run rẩy, rung rinh
Đôi cành gầy gò mỏng manh'
Đọc câu đầu của khổ thơ hai, người đọc sẽ cảm thấy lạ với cụm từ 'hơn một'. Tuy nhiên, cụm từ này đã tạo ra sự hứng thú. Không chỉ có một loài hoa 'rụng cành', mà có rất nhiều loài hoa như vậy. Xuân Diệu là một nhà thơ tài năng khi chọn những từ ngữ đặc sắc và sâu sắc. Việc sử dụng động từ 'rơi' để miêu tả cây trong vườn là rất tinh tế. 'Sắc đỏ' đang dần chiếm lấy lá cây, như một dấu hiệu của mùa thu đang đến. Câu thơ tiếp theo sử dụng hai từ 'run rẩy', 'rung rinh' để mô tả sự lay động nhẹ nhàng của 'cành gầy' khi có cơn gió thổi qua. Sự lặp lại của bốn chữ 'r' tạo ra cảm giác lạnh lẽo, sự 'run rẩy' cũng được cảm nhận rõ ràng hơn.
Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc sẽ gặp một hình ảnh vừa hiện thực vừa tượng trưng, đầy sáng tạo. 'Nàng trăng' là một ấn tượng đặc biệt cho độc giả. Tác giả không chỉ có thể diễn đạt hình ảnh của trăng non hoặc trăng đầu mùa. Mà còn biến trăng thành hình ảnh của một cô gái trẻ với sắc vàng của trăng non.
'Thỉnh thoảng, nàng trăng đắm chìm trong suy tư
Trên núi xa, bóng sương mờ dần'
Nhờ phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã tạo ra một hình ảnh về tính cách của trăng, giống như một cô gái đang suy nghĩ. Cùng với hình ảnh của trăng, tác giả cũng giới thiệu về núi non quê hương một cách khéo léo. Từ 'xa' cho thấy quan điểm của tác giả đã được mở rộng. Ban đầu, đó là từ góc độ cao nhìn xuống 'nàng trăng', và bây giờ là không gian kéo dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương 'mờ mờ'. Chính điều này tạo ra một hình ảnh vừa thực vừa ảo.
'Gió se lạnh, rét len lỏi qua
Chuyến đò vắng bóng người đi qua.'
Cấu trúc 'Đã...' diễn tả một sự việc đã xảy ra. Mùa thu mang theo cái rét đặc trưng và 'hội ngộ'. Tác giả chuyển sự chú ý sang thính giác để nghe 'lời thu nói'. 'Rét mướt' mang ý nghĩa cái rét len lỏi vào từng cơn gió, cùng với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả thực tế của những chuyến đò đã vắng người qua, tạo cảm giác buồn, lạc quan.
Đến với khổ thơ cuối cùng:
'Mây vẫn bay, chim không đậu
Khí trời u ám, lòng chia ly
Thiếu nữ buồn thầm, không biết nói gì
Đứng cửa nhìn xa, suy tư về đâu.'
Trong 'Đây mùa thu tới', bầu trời đầy buồn. Thi sĩ sử dụng hình ảnh chuyển động để tạo ra sự tĩnh lặng. 'Chim bay đi' trong cảnh chia ly làm cho không gian cảm thấy buồn bã. Tác giả diễn đạt từ cái rõ ràng đến cái không rõ ràng, tạo ra câu thơ mới lạ. Hình ảnh của 'thiếu nữ buồn không nói' và việc đảo ngữ giúp thể hiện nỗi đau, sự cô đơn của cô gái trước một không gian rộng lớn. 'Nhìn xa', 'nghĩ ngợi' làm nổi bật sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh mùa thu hay bước 'chuyển mình' của 'nàng thu'. Mượn hình ảnh của 'thiếu nữ', tác giả diễn đạt cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần kết thúc.
Trong 'Đây mùa thu tới', nhà thơ Xuân Diệu đã thể hiện khả năng quan sát và miêu tả cảnh vật khi mùa thu đến rất xuất sắc. Bài thơ không chỉ có hình ảnh, cảnh sắc mà còn chứa đựng tình cảm thu. Xuân Diệu đã vẽ nên bức tranh thu sống động nhưng cũng u buồn, cô đơn.
Phân tích bài thơ 'Đây mùa thu tới'
Xuân Diệu được xem là một trong những nhà thơ mới đáng chú ý nhất. Thơ của ông luôn đặc sắc với từ ngữ độc đáo, sáng tạo, hấp dẫn. Mỗi ai đã đọc thơ của ông ít nhất một lần đều khao khát được sống trong thế giới tự nhiên mà tác giả tạo ra. 'Đây mùa thu tới' được in trong tập Thơ thơ của Xuân Diệu, là một trong những bài thơ ông viết trước Cách mạng, nên vẫn mang nặng tâm trạng buồn.
Ngay từ tiêu đề 'Đây mùa thu tới', độc giả có thể hiểu được chủ đề chính của bài thơ. Nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu, mà là khi mùa thu mới bắt đầu, khi đất trời vừa tiễn biệt mùa hè để đón thu tới. Nhìn vào sự thay đổi của đất trời, Xuân Diệu phát hiện ra:
'Rặng liễu đứng yên đối mặt với tang thương,
Tóc buồn phải về, đọng lệ hàng nghìn;
Đây là mùa thu đang tới - mùa thu đang tới
Với bộ áo mơ phai màu của lá vàng'.
Mùa thu đến, cảnh rặng liễu rụng lá như một nỗi đau chết chóc. Tác giả so sánh rặng liễu như đang chịu tang, như đang trong cảnh biệt ly bi thương. Cành lá buông xuống như những giọt lệ rơi. Một cảnh tượng buồn thê lương, như hình ảnh một thiếu phụ đang khóc trong cảnh đưa tang. Câu thơ khiến độc giả cảm thấy buồn đến tận cõi lòng. Tiếp theo, tác giả thông báo 'mùa thu tới mùa thu tới' với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, nhấn mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh mùa thu.
Trong khổ thơ này, tác giả sử dụng từ ngữ nhân hóa để mô tả mùa thu như một người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Chúng ta có thể cảm nhận tâm trạng sầu thảm của nhà thơ qua cuộc sống.
Ở khổ thơ thứ hai, chúng ta cảm nhận được cảnh mùa thu ảm đạm. Mùa thu mang theo sự chia ly, khi hoa rơi xuống và sắc xanh của mùa hè nhường chỗ cho màu đỏ. Các cành lá rung rinh một cách run rẩy, không vui vẻ như mùa hè. Cùng với đó là cảnh cành cây trơ xương gầy mảnh, thiếu sức sống.
“Hơn một loài hoa đã rơi xuống
Trong vườn màu đỏ chắc chắn xanh;
Những cánh lá run rẩy, rung rinh...
Đôi nhánh khô gầy, xương mỏng manh”.
Tác giả sử dụng màu sắc và các nét chấm phá để mô tả mùa thu khô héo. Cả khổ thơ như một biểu hiện của sự thất vọng, chán chường của con người trước Cách mạng tháng Tám hoặc chính nhà thơ đang cảm thấy. Câu thơ sử dụng phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh sự thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu đến và tạo nên nét buồn thương của mùa thu.
Trong bài thơ này, nhà thơ mô tả sự thay đổi của mùa thu không chỉ trong thiên nhiên mà còn trong cả vũ trụ và con người. Trăng thu không còn sáng vành vạch như bình thường mà thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ, mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Mùa thu mang lại sự hiu quạnh, mờ ảo khiến cho cả vũ trụ trở nên buồn tẻ. Cơn gió lạnh đầu mùa làm đất trời và con người cảm thấy buốt giá, lạnh lẽo. Cảnh chuyến đò hàng ngày giờ trở nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông, chứng tỏ sự khô cằn của cuộc sống.
Phân tích bài thơ 'Đây mùa thu tới' của Xuân Diệu, ta cảm nhận được nét đẹp buồn của mùa thu. Mùa thu không còn mộng mơ nhưng chứa đầy nỗi buồn u uất. Đây cũng là tâm trạng của hầu hết các nhà thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng 8, khi đất nước còn trong cảnh lầm than, đời sống con người bị chà đạp bởi thế lực thực dân và phong kiến.
“Mây vẫn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Bức tranh mùa thu trong bài thơ này được tác giả vẽ bằng những từ ngữ bi thương và u uất. Nhà thơ cảm thấy buồn bã và uất hận, nên mùa thu trong bài thơ cũng mang tâm trạng đó. Mặc dù mùa thu không phải lúc nào cũng buồn như vậy, nhưng tác giả đã truyền đạt tâm trạng của mình qua các câu thơ đầy xót xa.
Toàn bộ bài thơ là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng ngôn từ sâu lắng và tinh tế. Nhà thơ đã sử dụng các từ ngữ như 'run rẩy', 'ngẩn ngơ', 'đìu hiu', 'mỏng manh' để làm cho bức tranh mùa thu trở nên sống động và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.
Trái với ngữ khí buồn của Nguyễn Khuyến, mùa thu trong bài thơ này của Xuân Diệu mang nét buồn của sự chia ly và tang thương. Điều này phản ánh tâm trạng chung của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, sau Cách mạng, họ đã nhìn nhận cuộc sống một cách lạc quan và tràn đầy sức sống hơn.