Khi nhắc đến Hàn Mạc Tử, không thể không nhắc đến bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ'. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã trở nên không thể tách rời với thi sĩ Hàn như hình với bóng, bởi vì nó không chỉ thể hiện tài năng mà còn thể hiện tình cảm; tâm hồn của Hàn Mạc Tử chứa đựng trong đó “chỉ là biểu hiện của tình yêu với một cô gái xứ Huế như một ai đó đã nhận xét.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ đầy kỷ niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn công tác tại Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc - con gái của ông chủ Sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Toàn bộ tình cảm của Hàn Mạc Tử đã được thể hiện trong tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế - Vĩ Dạ, Hàn Mạc Tử coi như cô đã đi lấy chồng.
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em đã lấy chồng, không còn mộng mơ nữa
Tôi sẽ đi tìm bãi cát trắng,
Ngồi trên đó thả hồn thơ.
Trong thời gian Hàn Mạc Tử bị bệnh hủi vào năm 1936. Năm 1939, ông nhận được một bức ảnh của Kim Cúc gửi tặng, là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, thuyền, bến, trăng, và hàng cây cau cao vút, kèm theo lời nhắn của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, và từ đó có bài thơ tuyệt vời này.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Khổ đầu tiên bắt đầu bằng một câu hỏi sâu sắc. Câu thơ nhẹ nhàng như một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng sau đó là lời mời gọi nồng nhiệt để khách đến thăm và thưởng thức vẻ đẹp của 'thôn Vĩ”.
Đến thôn Vĩ để 'ngắm nắng hàng câu mới lên'. Nhà thơ nhắc đến cây cau đầu tiên vì cau là loài cây thanh lịch, dễ thương với thân thẳng, lá xanh tươi, gợi cảm giác ngay thẳng và trung thành. Hình ảnh hàng câu ở đây còn có một chi tiết đặc biệt, đó là “Nắng hàng câu, nắng mới lên'. Từ “nắng” gợi lên ánh sáng ban mai, biểu tượng cho sự sống, niềm vui đang lan tỏa trên mặt đất. Dưới ánh nắng ban mai, những cây cau vẫn còn đọng sương đêm tỏa sáng lấp lánh như đang trỗi dậy để thu hút những tia vàng sáng rạng rỡ.
Khung cảnh đẹp đẽ thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thứ ba phát ra như một tiếng khen ngợi thú vị, biểu hiện sự ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Vườn Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được chăm sóc tỉ mỉ, bởi bàn tay khéo léo, cùng với việc tắm gội mưa gió thường xuyên, tạo ra một vẻ mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh trong câu thơ không chỉ chính xác mà còn tinh tế. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
Chỉ với vài nét vẽ nhẹ nhàng, Hàn Mạc Tử đã mô tả được cảnh vườn quê một cách quen thuộc, bình dị nhưng độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế dưới ánh “nắng mới lên” thật yên bình. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ trở nên sống động hơn khi hình ảnh con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi nhớ vẻ đẹp thanh cao và trang trọng, trong khi lá trúc lại gợi lên hình ảnh mảnh mai, xinh xắn và thanh tú. Câu thơ không chỉ tả một cảnh thực mà còn có ý nghĩa tượng trưng, làm cho nó trở nên hấp dẫn hơn.
Cảnh vật và con người hoàn hảo hoà quyện với nhau: cảnh đẹp, thơ mộng, con người phúc hậu và quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp tinh tế, dịu dàng. Nhờ đó, câu thơ đã thành công trong việc diễn đạt tinh thần của khu vườn cây xứ Huế mà khổ thơ này muốn truyền đạt.
Tóm lại, thông qua những chi tiết quen thuộc và đơn giản, Hàn Mạc Tử đã vẽ nên bức tranh về quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống, với vẻ đẹp bất ngờ và sự hòa hợp giữa cảnh vật và con người. Đoạn thơ này đã đánh thức trong lòng người đọc những cảm xúc sâu sắc về quê hương Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một góc nhìn khác về Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp tĩnh lặng của Vĩ Dạ và Huế nói chung.
Trở về Vĩ Dạ, trở về Huế, với núi Ngự, dòng sông Hương, Hàn Mạc Tử cảm nhận được cái bản sắc, cái nhịp điệu đặc trưng của Huế. Khung cảnh Huế dưới bàn tay của Hàn Mạc Tử có sông nước, bờ bến, gió, mây và chiếc thuyền lặng lẽ neo dưới ánh trăng trên bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, lãng mạn.
Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước trôi êm, hoa bắp lay.
Hai dòng thơ miêu tả không chỉ cảnh vật mà còn tâm trạng con người. Chúng khơi gợi cảm giác cô đơn và buồn bã. Có lẽ một tình yêu không được đáp lại, chưa từng trải qua niềm vui gặp gỡ đã sớm kết thúc, khiến cảnh vật chìm vào nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người. Gió thổi mây bay thường là điều bình thường, nhưng ở đây lại đứt gãy, như thể không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió' và “mây” đã truyền đạt điều đó. Thậm chí cả dòng nước vô tri cũng trở nên u buồn bên cạnh hoa bắp đang “lay” nhẹ nhàng.
Hai câu thơ không chỉ mô tả cảnh vật và tình cảm trong cảnh, mà còn muốn diễn đạt nhịp điệu của cảnh. Đó là nhịp điệu êm đềm, lặng lẽ, nét trầm tư rất đặc trưng của Huế. Hai dòng thơ với nhịp điệu chậm rãi đã thành công trong việc diễn đạt cảm xúc.
Viết về Huế không thể không đề cập đến trăng. Trăng dưới bút của Hàn Mạc Tử huyền bí, mang trong mình vẻ đẹp vũ trụ, tạo ra một không gian mơ mộng như trong giấc mơ:
“Thuyền đậu bên bến sông dưới ánh trăng
Có thể mang trăng về kịp cho đêm nay không?”
Chỉ trong giấc mơ, sông mới trở thành sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây, Hàn Mặc Tử là một người có tâm trí mơ mộng, tưởng tượng. Thực tế trở thành mơ hồ, và mơ hồ lại dẫn đến thế giới siêu thực. Lời thơ của Tử tinh tế quá! Ngọt ngào đến mức làm người ta say mê” (Bích Khê).
Trăng là biểu tượng của vẻ đẹp và hòa bình trong cuộc sống và tự nhiên. Trăng cũng là biểu tượng của hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh trong thơ của Hàn Mạc Tử đã đánh thức trong lòng người đọc niềm tin, niềm vui và khát khao tới vẻ đẹp hoàn mỹ và tốt lành. Nhưng lời thơ lại đặt ra như một câu hỏi không có lời giải. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện sự khao khát gặp gỡ nhưng cũng thể hiện nỗi lo lắng, lo sợ về tương lai. Chỉ một từ “kịp” ở cuối câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.
Khổ thơ thứ ba thể hiện vẻ đẹp mơ hồ của Huế và sự trìu mến xa xôi, khát vọng vô ích của tác giả đối với cuộc sống.
“Mơ về người xa lạ, người xa lạ
Áo em trắng quá, nhìn không nhận ra”
Trong giấc mơ, sông trở thành sông trăng và thuyền chở trăng. Ở đây, Hàn Mạc Tử có tâm hồn mơ mộng, tưởng tượng. Thực tế trở thành mơ hồ, và mơ hồ lại dẫn đến thế giới siêu thực. Lời thơ của Tử rất tinh tế! Ngọt ngào đến mức làm cho người ta say mê” (Bích Khê).
Tình cảm của người con gái thôn Vĩ có thể bền vững không? “Ai biết tình yêu có đậm đà như thế nào?'.
Dù trong nỗi đau đớn, nhà thơ vẫn dành những khoảnh khắc để hướng về quê hương thân thương và một tình yêu mơ mộng để tạo nên “một viên ngọc thơ tuyệt vời, tỏa sáng suốt hàng nghìn năm” (Chế Lan Viên).
Bài thơ có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy rằng, tác phẩm đã vượt xa giới hạn của cái cụ thể, đạt được sự trừu tượng nghệ thuật cao cấp để kể về cuộc sống rộng lớn.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử không chỉ là một bài thơ về tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không chỉ là về một thôn Vĩ nhất định mà còn là sự thổ lộ chân thành, là lời nói non hẹn biển của nhà thơ Hàn Mạc Tử về một tình yêu đầy bi ai và sâu sắc với cuộc đời này.