Chủ đề: Phân tích bài thơ đò lèn của Nguyễn Duy
I. Tóm tắt chi tiết
II. Mẫu văn bài phân tích
Bình luận về bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy
I. Cấu trúc Bình giảng bài thơ đò lèn của Nguyễn Duy (Hoàn chỉnh)
1. Giới thiệu
Khám phá bài thơ 'Đò Lèn' của Nguyễn Duy
2. Phần thân bài
Bài thơ là lời chia sẻ và tình cảm chân thành của tác giả đối với người bà của mình.
- Tác giả hồi tưởng về những kí ức ngọt ngào của thời thơ ấu -> Một cậu bé tinh nghịch.
- Kí ức của cậu bé luôn liên quan đến người bà -> Tình cảm bà cháu sâu sắc, thấm đẫm...(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Bình giảng bài thơ đò lèn của Nguyễn Duy tại đây.
II. Mẫu văn bình giảng Bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy (Đầy đủ)
Người bà đã trở thành biểu tượng quen thuộc trong văn học Việt Nam, luôn được các nhà văn, nhà thơ khen ngợi và tôn trọng. Người bà trong bài thơ 'Đò Lèn' của Nguyễn Duy cũng được ông mô tả bằng lời thơ sâu sắc và tràn đầy tình cảm.
Bài thơ được sáng tác khi tác giả trở về quê hương vào năm 1983. Ông tái hiện những ký ức thơ ấu qua hai khổ đầu tiên:
'Thuở bé tôi câu cá ở cống Na
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở bé tôi lên đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng'
Các địa danh như cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng là những nơi mà tác giả đã gắn bó từ thơ ấu. Những hình ảnh hoạt động như câu cá, níu váy bà, 'bắt chim sẻ vành tai tượng Phật', ăn trộm nhãn ở chùa, đi xem cô đồng... là biểu hiện của sự nghịch ngợm, hứng khởi của một đứa trẻ. Chi tiết 'níu váy bà đi chợ' mô tả hình ảnh một cậu bé hạnh phúc khi đi chợ cùng bà. Gia đình cậu có vẻ không giàu có nên cậu háo hức chờ đợi những quà quê từ chợ. Hình ảnh này là điều quen thuộc với nhiều đứa trẻ, mong chờ quà từ mỗi chuyến đi chợ của người thân. Tuổi thơ của tác giả liên quan mật thiết với người bà yêu dấu. Mô tả 'chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng' đưa người đọc đến không gian tâm linh của tuổi thơ, nơi mà mùi huệ trắng của hoa huệ hòa quyện với khói thơm và điệu hát văn của cô đồng để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí nhà thơ.
Có vẻ bởi sự hồn nhiên, vô tư, Nguyễn Duy không nhận ra những cực nhọc, vất vả của bà:
'Tôi chẳng hay bà tôi khó khăn thế nào
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững gió rét buốt'
Dường như Nguyễn Duy đang cảm thấy hối hận vì chưa nhận ra sự đối diện với sự vất vả của bà. Người bà phải làm việc đầy cực nhọc, không ngần ngại gian khổ để đảm bảo cuộc sống cho cháu. Bà thực sự làm nhiệm vụ cha mẹ, chăm sóc cháu lớn lên thành người. Tình yêu thương của bà là không giới hạn, bà không ngần ngại mò cua, xúc tép ở đồng Quan, gánh chè xanh ở Ba Trại, 'thập thững' ở Quán Cháo, Đồng Giao trong những đêm gió rét buốt. Những địa danh đó là nơi ghi dấu bước chân và sự vất vả của bà. Khi còn nhỏ, tác giả không hiểu rõ sự hy sinh của bà. Ông 'chẳng hay' sự khó khăn, công lao của bà. Chỉ khi lớn lên và khi bà đã ra đi, ông mới nhận ra điều đó. Bà trở thành một biểu tượng thánh thần trong tâm hồn của Nguyễn Duy:
'Bà quả thực như một thánh thần:'
'Giữa hai thế giới hư - thực
giữa bà tôi và thế giới tâm linh
cả năm đói, củ dong riềng luộc sượng
thơm mùi huệ trắng, hương trầm'
Người bà được so sánh với những hình tượng thiêng liêng như 'tiên, Phật, thánh, thần'. Tình yêu thương của bà đối với cháu không thể đo lường. Trong những năm đói đuối, khi phải ăn 'củ dong riềng luộc sượng', thức ăn nhưng lại mang đến hương vị của mùa huệ trắng và hương thơm của trầm.
'Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền'
Những sự kiện như bom Mĩ đã làm cho đền, chùa 'bay tuốt' khỏi cuộc sống. Người bà mạnh mẽ đã phải đối mặt với khó khăn, bán trứng ở ga Lèn, mò cua xúc tép để nuôi cháu lớn. Ngôi nhà mất đi, nhưng tinh thần kiên cường của người bà không lụi tàn. Bà không ngần ngại khó khăn, vẫn bươn chải sớm hôm để chăm sóc đứa cháu duy nhất của mình.
Tình yêu thương của bà đều trao hết cho đứa cháu, nhưng chỉ khi lớn lên người cháu mới hiểu được sự hi sinh thầm lặng của bà:
'Tôi rời làng, lính ơi quê nhà xa
sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi thấu hiểu tình thương bà thì đã quá muộn
bà chỉ còn là một nấm mồ'.
Thời gian trôi qua, cậu bé tinh nghịch ngày nào đã trở thành một người lính anh dũng. Thời gian đi lính cũng là thời gian anh không về quê thăm bà được, đến khi trở về thì 'bà chỉ còn là một nấm mồ'. Người bà đã ra đi để lại nỗi buồn, sự day dứt không ngừng. Khung cảnh làng quê vẫn thường, dòng sông năm xưa vẫn 'bên lở, bên bồi', nhưng thiếu vắng hình bóng người bà thân thuộc. Người lính nhớ nhung, trước sự ra đi của bà, anh cảm thấy tiếc nuối và hối hận vì đã không nhìn thấy sự cố gắng của bà sớm hơn. Đứng trước nấm mồ người bà, tác giả ân hận vì đã hiểu thấu tình thương bà quá muộn. Có lẽ con người chỉ biết trân trọng khi mất đi mà không để ý đến những điều hiện hữu.
'Đò Lèn' là sự chia sẻ chân thành của tác giả về người bà yêu quý. Nguyễn Duy sử dụng ngôn ngữ giản dị để tả thực tình cảm thiêng liêng ấy. Bài thơ làm xúc động đông đảo độc giả và trở thành một tác phẩm nổi tiếng về đề tài người bà trong văn học Việt Nam.