Bài mẫu 1
Đường về quê mẹ là những dòng hoài niệm của người con về những lần cùng mẹ trở về quê ngoại. Trong những kí ức đẹp đẽ ấy, mỗi khi xuân về, mẹ lại dẫn dắt con trở về quê mẹ. Bước theo nhịp chân của mẹ, con nhìn thấy cảnh vật thiên nhiên và con người quê ngoại hiện lên trước mắt. Phong cảnh mùa xuân rực rỡ với những cánh đồng xanh tươi, dòng sông trắng bạch, bãi cỏ vàng, những bãi cát mịn màng.. Cảnh vật sống động, tràn ngập sức sống, tạo nên một bức tranh quê hương với sắc màu và đường nét hài hòa. Con người nơi đây đang bận rộn trong công việc hàng ngày: người cày, người gieo mạ. Khung cảnh yên bình và ấm áp đến lòng. Qua những trải nghiệm của người con, quê hương là một vùng ký ức êm đềm và lãng mạn. Mẹ là nhân vật chính trong bài thơ. Dấu ấn của mẹ trong lòng con là một hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng. Hình ảnh về mẹ với chiếc khuyên vàng, yếm thắm, áo sơ mi nâu, đôi mắt sáng, đôi môi hồng, má đỏ.. luôn rõ ràng trong tâm trí con, có lẽ vì mẹ quá xinh đẹp, quá dịu dàng khiến con phải ngạc nhiên: Mẹ trông giống như một cô gái. Qua lời khen ngợi của người dân trong làng, mẹ hiện lên với hình ảnh 'thảo hiền' đáng yêu. Dù đã lấy chồng xa nhà nhưng mẹ vẫn không quên quay về thăm quê mẹ. Bài thơ đã mô tả được niềm vui, sự hồi hộp của người con mỗi khi cùng mẹ về quê ngoại. Đồng thời cũng thể hiện tình cảm yêu quý, tự hào của con về vẻ đẹp, tính cách của mẹ.
Mẫu số 2
Hoài Thanh đã viết: “Trong số những nhà thơ quê hương, không ai có tài năng văn chương phong phú và rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”. Câu nói đã khẳng định Đoàn Văn Cừ luôn sử dụng ngòi bút của mình để miêu tả quê hương, và “Đường về quê mẹ” là một trong những tác phẩm như thế.
Chỉ với sáu khổ thơ, mặc dù không dài nhưng cũng không ngắn, nhưng đã đủ để thể hiện tình cảm yêu thương về quê hương, đặc biệt là về mẹ của tác giả. Trong sáu khổ thơ, hai khổ đầu của bài đã thể hiện rõ nỗi nhớ về quê hương và những ký ức về con đường về quê cùng mẹ.
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bảy sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
“U tôi”, một tiếng gọi thân thương cũng như một lời khẳng định. Vào mỗi mùa xuân, u sẽ đưa tôi về quê ngoại, nhận lại họ hàng và thăm mọi người ở quê. Có con đường nào đẹp bằng con đường về quê, nơi có người luôn yêu thương và chờ đợi ta. Con đường về quê luôn đẹp với những rặng liễu, rặng đề ven đường, trời trong xanh với những áng mây trắng bay. Đường về quê luôn có dòng sông trắng uốn lượn chào đón, luôn có những cồn xanh bãi tía cùng người nông dân bộn bề việc nông. Quang cảnh tả thực chứ không hề tô vẽ, phóng đại. Tuy nhiên, cái đẹp của quang cảnh cũng không thể nào sánh được với vẻ đẹp của u.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
U chính là đại diện cho những nét đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa. Dù đã lớn tuổi nhưng u vẫn không khác gì thời con gái với thúng cắp bên hông, đầu đội nón lá, đeo khuyên vàng, mặc yếm thắm, áo the nâu. Tuổi tác cũng không che được những nét hồng hào ở u. Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au, tất cả đã làm bừng sáng cả bài thơ. Đối với tác giả, với cương vị là người con và dưới con mắt đa tình của nhà thơ, u luôn đẹp, luôn trẻ, luôn hiện hữu bên cạnh mình, để chỉ cần nhấc bút là có thể vẽ lên mẹ trên những vần thơ.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tuy nhiên, sự thật vẫn luôn là sự thật. Ở khổ thơ bốn, tác giả đã mượn cảnh đông vui của làng quê để che giấu đi nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng mình. Dù con đường về quê vẫn vậy, dù cảnh sắc thiên nhiên vẫn thế, nhưng mùa xuân này, tác giả lại về quê một mình. Thời gian cứ trôi, con người vẫn luôn miệt mài trong cuộc sống của họ, những hình ảnh bình dị về quê hương như những buổi chiều mát, con đường đón nhận những tia nắng vàng cùng đoàn người gánh khoai lang ra về. Tất cả vẫn còn hiện hữu, chỉ có người cùng mình về quê mỗi mùa xuân là không còn. Mùa xuân đến cũng là lúc lá bàng lìa khỏi cây. “Xác lá bàng” ở đây chỉ là cái lá rụng rơi trên mặt đất còn hồn lá bàng đã đi theo sự tan biến của mùa đông. Qua hình đó, tác giả đã thể hiện sự biết ơn và nỗi nhớ về mẹ.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Hai khổ thơ cuối đã cho thấy những hoài niệm của tác giả về u. Không chỉ mang nét đẹp ngọt ngào, dịu dàng mà còn mang nét đẹp lao động cần mẫn, chăm chỉ. Tà áo nâu cùng chiếc nón lá, u “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Dưới gió chiều bụi mịt mù, bóng lưng chăm chỉ làm tác giả phân vân không biết là của mẹ hay của thiếu nữ nào.
Còn gì vui hay tự hào khi về quê, nghe được những lời khen ngợi về gia đình. Cũng chính vì nết na, thảo hiền, lại chăm chỉ, biết lẽ đúng, u luôn được người làng khen ngợi hết lời. U không chỉ là đại diện cho nét đẹp thời xưa của con gái Việt Nam mà còn là biểu tượng đẹp nhất trong lòng con.
Với ngôn từ giản dị, với những nét bút tả thực, hình ảnh làng quê cùng người mẹ đã hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Có thể nói, với mỗi nhà thơ, nhà văn, việc viết lên trang giấy những dòng chữ cùng chính là cách mà họ lưu giữ lại những ký ức, những điều mà họ muốn giữ lại đến muôn đời, và mẹ cùng con đường về quê mẹ chính là điều mà Đoàn Văn Cừ muốn lưu giữ cho bản thân mình.
Đoàn Văn Cừ đã sử dụng thể thất ngôn tứ tuyệt trong bài thơ 'Đường về quê mẹ', gồm 6 khổ, 24 câu, để mô tả hình ảnh một người phụ nữ nông thôn Việt Nam xưa dẫn các con về quê ngoại.
Bài thơ không chỉ tập trung miêu tả khung cảnh đồng quê mà còn truyền đạt được cảm xúc một cách tinh tế. Tác giả đã 'chộp' lại khoảng thời gian, không gian, và các khung cảnh cánh đồng, làng quê... để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa. Thông qua 4 câu kết, nhà thơ đã gián tiếp thể hiện tâm tư của mình qua nhận xét của dân làng: Dù có thân phận 'nữ nhi ngoại tộc', nhưng người phụ nữ thảo hiền vẫn không quên về quê cha, về đất tổ...
Theo nguyên tắc của thể thơ Đường, tác giả đã bắt đầu bài thơ bằng hồi ức của một đứa con, giữ lại trong trí tưởng tượng hình ảnh của mình khi còn nhỏ, đi cùng mẹ về thăm quê ngoại:
U của tôi ngày xưa, mỗi khi mùa xuân về
Dặm đường, những đám mây bay trắng ngần
Luôn dẫn chúng tôi về thăm họ hàng
Ở miền quê ngoại của hai cha con.
U - là cách gọi mẹ của dân làng ở vùng Nam Định. (gọi cha, bố là Thầy). Nguyễn Bính, người của huyện Vụ Bản, cũng gọi mẹ như thế trong bài thơ 'Chân quê': 'Thầy U mình với chúng mình chân quê' (1). Tuy nhiên, ở hai huyện Giao Thủy, Hải Hậu - cũng là ở Nam Định - thì dân vẫn gọi là Bố - Mẹ.
Hai cha con (hoặc song thân) - là cách gọi bố mẹ của những người có học, thể hiện sự kính trọng và văn hoá. Nhà thơ đã sử dụng cụm từ: 'dặm đường - những đám mây bay - (sắc) trắng ngần' - vừa như mô tả cảnh trí (mây trắng bay...) và thể hiện sắc đẹp của mẹ: Tinh tế, thướt tha, uyển chuyển...
Quê của ông Đoàn là làng Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực - nằm gần sông Hồng.
Vì sao có 'Những dòng sông trắng lượn ven đê' ?
Dọc theo con đê, phía ngoài là sông Hồng - sông lớn nhất miền Bắc, còn phía trong là những con sông nhỏ lượn quanh. Nguyên nhân: Để chống lại lũ lụt khi nước sông dâng cao vào mùa lũ, dân cư hai bên bờ tả ngạn (Nam Định) - hữu ngạn (Thái Bình), đào đất lên để bồi đắp đê chống nước. Đê sông Hồng là con đê to nhất ở miền Bắc, nên đất đào nhiều, tạo thành những con sông chạy dọc theo đê. Khoảng cách giữa đê chính và sông đào không xa nhưng đất này lại khá lớn, khó trồng lúa vì không có hệ thống bơm điện, nên ở đây thường ngập lụt.
Dân quê không lãng phí đất, họ phải đắp lên cao để tạo thành những cồn đất. Còn bãi - thường nằm dưới chân đê cạnh mép nước sông. Trên bãi, dân cư trồng hoa như ngô, khoai, rau cải, cà pháo, cà tím... các loại cây đã tạo nên cảnh sắc 'Cồn xanh - bãi tía kề liên tiếp'...
Dọc bờ sông, cây đề được trồng thành hàng, tạo thành rặng cây. Cây đề có họ rễ buông với cây đa. Trên bờ, đê buông rễ xuống mặt nước... có những đoạn vài trăm mét lại có một lều hoặc những con thuyền nan có những cụ già buông cần câu cá, tạo thành phong cảnh sông nước, quê hương yên bình, tĩnh lặng, đẹp như tranh...
Với thúng tre bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo nâu đẹp đẽ
Mẹ như một cô gái dịu dàng
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ tự nhiên.
Người phụ nữ xưa thường sử dụng thúng - đan bằng tre, vành cạp mây - để đựng đồ vật khi đi chợ hoặc di chuyển. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong 'Gửi Trương Tửu': 'Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua'. Lần về này, mẹ dùng thúng để đựng quà tặng cho thầy, u và người thân. Vì thúng nhẹ, chỉ dăm ba cân, dễ mang theo nên mẹ không cần đội lên đầu mà cắp bên hông.
Người mẹ được nhà thơ miêu tả - dẫn theo mấy đứa con (dẫn chúng tôi), chắc thời con gái mẹ rất xinh đẹp. Dù đã có nhiều con, nhưng nhìn vào trang phục: Yếm thắm, khuyên vàng, áo nâu và 'má (vẫn) đỏ tự nhiên', cậu bé cảm nhận mẹ mình vẫn giữ được vẻ đẹp như thời con gái! Dưới góc nhìn của một đứa trẻ, người mẹ thân yêu thật sự rất đẹp. Đó cũng là hình ảnh của những người mẹ trẻ thời đại đó, vì khi nhà thơ viết 'Đường về quê mẹ' ông mới 29 tuổi (1913 - 1942). Kí ức về mẹ của tác giả chỉ còn lại rất ít, vì khi theo mẹ về quê ngoại, nhà thơ mới 5 tuổi...
Tà áo nâu hiện lên giữa cánh đồng
Gió chiều cuốn bụi phía sau lưng
Bóng U giống như bóng một người con gái làng quê
Cúi nón che kín cặp má hồng.
Khi về quê, mẹ và con phải đi qua cánh đồng. Tấm áo nâu mỏng tang của mẹ. Gió chiều thổi mạnh, cuốn bụi phía sau lưng. Mẹ co rúm lại, như tránh xa khỏi những hạt bụi. Cúi đầu, kéo nón che kín khuôn mặt để bảo vệ khỏi bụi bay vào mắt. 'Cúi nón' khiến cả má hồng của mẹ được che kín. Mẹ trông giống như một cô gái dịu dàng... cậu bé cảm thấy như mẹ mình là một cô gái quê nhỏ - nhỏ nhẹ, dịu dàng...
Chiều mát, đường dài nắng vàng nhạt
Nhóm người về ấp gánh khoai lang
Bầu trời xanh, những con cò trắng bay từng đàn
Xóm chợ, những chiếc lều phơi xác lá bàng.
Làng Đô Quan, ở phía nam là vùng đất thấp chỉ trồng được lúa. Ở phía bắc, gần các làng Thôn Nội, Liên Tỉnh... là vùng đất cao, chứa cát, thích hợp cho việc trồng hoa màu, nên dân cư không trồng lúa...
Khoai lang ở vùng đất chứa cát - rất đặc biệt: Củ lớn như bắp chân người lớn, nặng từ 300 đến 1 kg. Có củ nặng vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai đặc, nuốt phát nghẹn. Có loại khoai nghệ, luộc chín, bóc vỏ, ruột khoai vàng như nghệ, đường ứa ra ngọt như mật nên dân Nam Định gọi là khoai nghệ - khoai mật.
Vào buổi chiều khi mẹ về quê, thường gặp nhiều nông dân bới khoai về thôn ấp. Buổi chiều ở quê rất đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về tổ, in trên nền xanh làm nổi bật những cánh cò trắng. Qua cái chợ ở đầu làng (mọi người đã về hết), những chiếc lều xiêu vẹo ngập trong xác lá bàng, cây thường được trồng ở những nơi dân cư tập trung (chợ, trường học, đình làng...) để tạo bóng mát, giảm đi sự oi bức trong mùa hè nắng nóng.
Bài mẫu 4
Bài thơ “Đi về quê mẹ” là một ví dụ điển hình của tác giả Đoàn Văn Cừ, xuất hiện trong tập thơ “Thôn ca” năm 1942. Trong khi giới thiệu về thơ của Đoàn Văn Cừ trong “Thi nhân Việt Nam” năm 1941, Hoài Thanh đã viết: “Trong số các nhà thơ nông thôn, không ai có tài năng sáng tạo và phong phú như Đoàn Văn Cừ”. Hoài Thanh cũng rất chính xác khi viết: “Nhắc đến Đoàn Văn Cừ, tôi lại nhớ đến mùa xuân”. Trong dịp Tết Nguyên Đán này, hãy cùng theo chân Đoàn Văn Cừ trên con đường về với quê hương mà tác giả đã mê mẩn hơn năm mươi năm trước…
Bài thơ này gồm sáu khổ, viết theo phong cách tả thực, chân mạch và đơn giản theo kiểu vẽ tranh thủy mặc, không sử dụng những chi tiết lòe loẹt, không sử dụng siêu hình hoặc hình tượng siêu thực, không uốn éo vặn vẻ nhưng vẫn thơ mộng. Điều đó là vì Đoàn Văn Cừ diễn đạt bằng tình cảm thực sự: “Mỗi mùa xuân, mảnh đất của tôi / Dặm cây liễu mây bay trắng trời / Đưa tôi trở về để đón nhận sự ra đời / Ở miền quê ngoại của hai người”. Có thể, một số nhà thơ trẻ hiện nay khi đọc những dòng trên của Đoàn Văn Cừ hơn nửa thế kỷ trước, sẽ trào phúng, phê phán: thơ quê hương này không có gì đặc sắc cả!
Thật vậy, thơ của Đoàn Văn Cừ chính là thơ của quê hương, của hạt lúa và củ khoai, của vùng nông thôn Việt Nam. Thơ của Đoàn Văn Cừ chính là hình ảnh của “Mảnh đất của tôi mỗi mùa xuân”, của “Dặm liễu mây bay” và chân thành, chân chất như “Miền quê ngoại”… chỉ có thể nhìn và cảm nhận, nhưng không thể phân tích… Khổ thơ bốn câu ba vần, nhà thơ sử dụng vần ân: xuân, gần, thân tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, thân mật, phân biệt, bần thân… như một tiếng chuông dài vang vọng mãi nỗi lo lắng “Mảnh đất của tôi” ngày xưa. Thơ của họ Đoàn là một bức tranh tĩnh lặng, nhưng là tĩnh lặng của tĩnh lặng, dù có bóng người đang hoạt động nhưng vì nó quá cũ, quá xa nên yên bình đến mức có vẻ như không còn có thơ nữa, chỉ có vật vã nảy sinh tâm hồn, tâm hồn sinh cảnh vật, cảnh vật sinh tình cảm, tình cảm sinh… thơ: “Tôi nhớ đi qua những cánh đề / Những dòng sông trắng lượn ven đê / Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp / Người xới cà ngô ồn ào bốn phía”.
Nếu trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ miêu tả cảm giác về không gian và thời gian, trong khổ thơ thứ hai miêu tả tổng quan toàn cảnh quê hương, nơi nhà thơ từng đi theo mẹ về quê ngoại vào những ngày đầu xuân, thì khổ thứ ba là khổ thơ thành công nhất của bài thơ vì nó miêu tả rất đầy đủ về người mẹ Việt Nam xưa: “Thúng đeo bên hông, nón đội đầu / Khuyên vàng, yếm thắm, áo màu nâu / Trông như không khác gì thời con gái / Mắt sáng, môi đỏ, má hồng”. Bài thơ từ tĩnh lặng chuyển sang sự sống động, sôi nổi như giữa vùng lá xanh bỗng chốc xuất hiện một bông hoa hồng mới nở. Người mẹ hiện lên đẹp như buổi sáng mùa xuân, gọn gàng và dịu dàng từ diện mạo, thần thái đến trang phục như vẻ dịu dàng thuần khiết của một cô gái Tấm, của một Giáng Kiều bước ra từ bức tranh Tố Nữ làng quê. Khổ thơ này miêu tả về người nhưng thực sự là để miêu tả về tình cảm, miêu tả về tình mẫu tự, về vẻ đẹp của nông thôn Việt Nam và là vẻ đẹp của thơ Đoàn Văn Cừ: “Đi qua làng gặp những người thân quen / Ai cũng khen ngợi nét hiền hòa / Dù phải trở thành người vợ / Con đường về với quê mẹ vẫn không bao giờ quên”.
Có thể những người trẻ tuổi làm thơ ngày nay có thể coi thường bài thơ này nhưng thơ của Đoàn tiên sinh thật sự là như vậy, không phải là trang trí, không phải là cái đen cái nâu mà bây giờ không ai mặc nữa. Có thể thơ của Đoàn Văn Cừ còn chút nôm na, nhưng là loại nôm na của đồng cỏ, của khói lửa làm nên vẻ đẹp tối tăm, của linh hồn của quê hương, của tình cảm nồng nàn. Đọc bài thơ của ông, tôi không hiểu sao lại cảm thấy vẻ đẹp hồn hậu, vẻ đẹp đơn giản nhất mà luôn mang trên mình chút sương khói của nỗi buồn vĩnh cửu. Mùa xuân này, hãy trở về với nông thôn, nơi không chỉ là quê hương của dân tộc Việt Nam mà còn là quê hương của thi ca, của linh hồn, của tình người mãi mãi, để tôn vinh Đoàn Văn Cừ, người đã để lại cho chúng ta một tình yêu và một cảm xúc mãnh liệt, vẻ đẹp của một thời đã qua.
(Nguồn: Tự sưu tầm)