Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Xuân Diệu đã miêu tả về mùa xuân với cảm xúc sâu lắng, đầy mê đắm:
... 'Tháng giêng ngọt ngào như đôi môi gần kề...
... Hỡi xuân hồng, chúng ta mong muốn được chạm vào ngươi'...
Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. 'Thơ duyên' là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.
'Thơ duyên' - một thi đề rất thơ. Cái 'duyên' được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái 'hồn xanh như ngọc bích'.
Một buổi chiều thu tuyệt đẹp - 'chiều mộng' - êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang 'hóa thơ trên nhánh duyên'. Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. 'Con gió xinh thì thào trong lá biếc' ('Vội vàng'), cả một trời thu 'nơi nơi động tiếng huyền'. Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me 'cặp chim' vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết 'khúc nhạc thơm'; 'khúc nhạc hường', giờ đây ta lại được thưởng thức 'tiếng huyền' của buổi 'chiều mộng':
'Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền'.
Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như 'đổ' xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài 'Đây thôn Vĩ Dạ”: 'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc'... Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.
Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền - cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái 'duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai nói về con đường và trái tim 'rung động nỗi thương yêu'. 'Nhỏ nhỏ'... “ xiêu xiêu'... 'lả lả' - bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn 'nắng trở chiều'. Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. 'Buổi ấy', trái tim 'ta' xao xuyến, 'rung động' một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:
'Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu'.
'Em' và 'anh' cùng dạo bước trên đường. 'Em' bước đi 'điềm nhiên', trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân 'lững đững' - thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng 'vô tâm' mà hình như đã có cái 'duyên' trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!
'Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần'.
Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị 'Anh với em' đẹp như một cặp vần trong 'bài thơ dịu'. Cặp vần ấy ngân lên 'rung động nỗi thương yêu'. Một so sánh độc đáo nói lên cái 'duyên' lứa đôi:
'Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần'.
Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: 'Xuân Diệu say đắm cảnh trời... khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết...”
Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải 'Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi' ('Lầu Hoàng Hạc' - Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp. Hai chữ 'về đâu' đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ 'Con cò trên ruộng cánh phân vân' là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. 'Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới' (Hoài Thanh). Hình ảnh 'cánh phân vân' đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống...
Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:
'Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần'.
Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. 'Chim nghe...” - sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần...
Thời gian nhẹ nhàng trôi 'bước thu êm'. Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và 'thắm lại' (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: 'Lòng anh thôi đã cưới lòng em'. Phải chăng ý câu thơ này: 'Anh đã phải lòng em' như có người đã hiểu?
'Thơ duyên' đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn 'duyên' vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến 'Thơ duyên', hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, 'Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên 'Lòng anh thôi đã cưới lòng em' vậy. Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. 'Thơ duyên' là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập '100 bài thơ tình', 'Thơ duyên' mang vẻ đẹp một 'hoa khôi' sáng giá.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu, người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ tài hoa, có khả năng quan sát tinh tế và tình cảm nồng cháy. Trong những bài thơ của ông, luôn hiện hữu tinh thần yêu cuộc sống và trân trọng mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật. 'Thơ duyên' là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Ở bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc mô tả sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu.
'Thơ duyên' là một khúc hát tương tác mạnh mẽ, nhạy cảm với cuộc đời. Từ 'duyên' có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên, đất trời và con người. Với tâm hồn dễ rung động trước vẻ đẹp và sâu lắng trong tình yêu, nhà thơ trân trọng sự thay đổi của thời gian, đặc biệt là sự chuyển dịch từ mùa hạ sang mùa thu. Không chỉ trong bài thơ này, ông đã viết về mùa thu mà trong tập 'Thơ thơ', độc giả cũng có thể tìm thấy 'nàng thơ' ngẩn ngơ, u sầu trong 'Đây mùa thu tới'. 'Thơ duyên' mở đầu bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
'Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.'
Tổng thể cảnh vật mùa thu qua khúc thơ này rất sinh động và thơ mộng. Với không gian là buổi 'chiều mộng' - lãng mạn, êm đềm hòa vào đó 'thơ trên nhánh duyên' tạo nên khung cảnh trữ tình. Mọi vật dường như đều hân hoan, hòa nhịp khi mùa thu đến với 'cặp chim chuyền' vui vẻ ríu rít trên 'cây me'. Hình ảnh cây me cũng đưa người đọc về Hà Nội xưa, một phần của quê hương. Đồng thời, 'bầu trời', 'lá' đều chuyển sang màu ngọc, tạo nên cảm giác trong lành, tươi mới. Cụm từ 'thu đến' như một lời chào đón, phấn khích cho mong ước đã thành hiện thực.
Trái với khúc thơ đầu tiên, tác giả chuyển sang một không gian riêng tư hơn.
'Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.'
Thi sĩ giảm độ cao, gần gũi hơn với chi tiết. Ngôn từ như 'nhỏ nhỏ', 'xiêu xiêu', 'lả lả' tạo ra hình ảnh dễ thương trên nền nắng chiều. Động từ 'trở' đầy cảm xúc, tạo ra cảm giác chuyển động. Trong không gian mùa thu, tác giả nhớ lại lần đầu tiên cảm nhận rung động của tình yêu. Điều này kích thích trí tò mò của người đọc khi đối với nhân vật 'ta', hành động 'nghe' không chỉ là lắng nghe âm thanh mà còn là lắng nghe tâm hồn, tình cảm của 'bạn' yêu thương. Đó là cách sử dụng từ vô cùng độc đáo của tác giả.
'Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần.'
Hình ảnh của sự 'rung động' được tái hiện rõ ràng hơn. 'Em' trong hồn nhiên, ngây thơ bước đi không quan tâm. Trong khi đó, 'anh' đi 'lững đững' - thoải mái, tự tin. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, dường như đã được duyên phận sắp đặt!
'Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.'
'Vô tâm' có thể hiểu là sự lạnh lùng, xa cách hoặc là sự lạ lẫm nhưng vẫn có sự giao thoa, kết nối. Qua sự so sánh, nhà thơ Xuân Diệu truyền đạt quan điểm của mình về từ 'duyên'. Với ông, sự hòa hợp của thiên nhiên với thiên nhiên, của con người với con người vẫn chưa đủ. Điều này được thể hiện qua việc 'em' bước đi thảnh thơi mà không để ý đến 'anh' phía sau, còn 'anh' ngắm nhìn thế giới xung quanh mà không quan tâm đến 'em' phía trước nhưng giữa họ vẫn có một sự liên kết như 'cặp vần' - gắn bó không thể tách rời. Đó là một quan niệm nhân sinh mới mẻ!
'Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.'
Khúc thơ cuối đưa người đọc đến với cảnh mùa thu trên bầu trời rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng trở nên nhanh chóng, sôi động hơn. Từ 'gấp gấp' tạo ra cảm giác hối hả, thúc đẩy. Tuy nhiên, cụm từ 'về đâu' đặt ra câu hỏi về đích đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng 'phân vân', không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay xa. Chiều thu tàn, bầu trời trải rộng và cánh chim dường như đã thích nghi để 'giang thêm cánh'. Tác giả gắn cho chim với động từ 'nghe' như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên và từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách sử dụng từ hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp tinh tế và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mệt mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi nhiều. 'Hoa lạnh' có thể do 'đẫm sương' hoặc là do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút xao xuyến, bâng khuâng.
Khúc thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình hồi tưởng về tình đầu của mình, về những cảm xúc đầu đời được kết hợp vào trong hình ảnh của thiên nhiên. Hình ảnh 'bước thu êm' như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của mùa thu. Từ 'êm' tạo ra cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền mùa thu dịu dàng, e ấp, 'anh' lại nói về sự rung động của mình khi gặp 'em' - 'lòng anh thôi đã cưới lòng em'. Động từ 'cưới' như một sự chắc chắn rằng anh đã yêu em và tấm lòng của anh chỉ hướng về em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem 'em' như là 'mảnh ghép' còn lại của cuộc đời anh.
'Thơ duyên' không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn về hình thức. Bên cạnh việc sử dụng các từ ngữ đặc sắc và thú vị, một điểm đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thông thường ở thơ bảy chữ, nếu có bốn câu thì chỉ có dấu chấm ở dòng cuối cùng trong mỗi khổ. Nhưng với 'Thơ duyên', có một sự khác biệt, dòng một và ba kết thúc bằng dấu chấm phẩy, trong khi dòng hai và bốn kết thúc bằng dấu chấm. Điều này tạo ra một cái nhìn mới mẻ và sáng tạo trong bài thơ của Xuân Diệu.
Bằng bút pháp giàu nhiệt huyết và tình yêu sôi nổi, Xuân Diệu đã vẽ nên bức tranh của thiên nhiên với nhiều hình ảnh, sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó, ông cũng mô tả sự rung động đầu đời, sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt từ trước. Tình duyên nảy nở giữa những cung đường mùa thu!'