Bài viết mẫu 1
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ vĩ đại, một tài năng đa phương diện đặc biệt bởi khả năng sáng tạo và thành công trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Ông viết tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình văn học, viết kịch, soạn nhạc và sáng tác thơ, ở mỗi thể loại đều tạo ra dấu ấn đặc biệt.
Đối với thơ, Nguyễn Đình Thi luôn là một trong những người dẫn đầu trong việc thử nghiệm và khám phá con đường mới cho thơ Việt Nam. Kết hợp hài hòa giữa thơ truyền thống và hiện đại, thơ của Nguyễn Đình Thi sâu lắng, tinh tế, giàu nội tâm nhưng cũng sắc sảo và thuyết phục bởi trí tuệ sáng tạo.
Cảm hứng chính trong thơ của Nguyễn Đình Thi là tình yêu với đất nước. Ông viết về đất nước trong những thời kỳ khó khăn và hào hùng, với sự sâu sắc về lịch sử và tính chất tổng quát của thời đại. Và những bài thơ về đất nước đã tạo nên danh tiếng của nhà thơ.
“Lá đỏ” là một trong những bài thơ như vậy, được viết trước khi quân đội Việt Nam bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam nhưng đã dự đoán được chiến thắng tất yếu của dân tộc.
Chỉ với tám câu thơ, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc trong cuộc chiến tranh giữ nước – cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, thống nhất đất nước.
Nguyễn Đình Thi có vẻ như có số phận liên kết với Trường Sơn. Vào những thập kỷ 30 của thế kỷ này, gia đình ông ở Luang Prabang, Lào, đã vượt qua Trường Sơn từ phía Tây sang phía Đông trở về Việt Nam sinh sống.
Và, theo ghi chép trong cuốn sổ tay ông để lại: vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, ông đã đi dọc Trường Sơn đến đất Nam Bộ. Việc này cho thấy rằng bài thơ “Lá đỏ” được viết khi nhà thơ trực tiếp trải qua và sống cùng Trường Sơn, điều này minh chứng cho tính chân thực và sống động của “vật liệu Trường Sơn” trong bài thơ “Lá đỏ”.
Trường Sơn theo cảm nhận của Nguyễn Đình Thi đầu tiên là một vẻ đẹp và sức mạnh của thiên nhiên:
Gặp em trên đỉnh, gió thổi mạnh
Rừng lạ vẫy lá đỏ
Nhà thơ đứng trên đỉnh Trường Sơn, nơi không gian rộng lớn, có thể nhìn ra toàn cảnh. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Trường Sơn đông nắng tây mưa/ Ai chưa đến đó chưa hiểu mình” (Nước non ngàn dặm). Ở đây, Nguyễn Đình Thi đứng trên đỉnh của Trường Sơn, không chỉ “hiểu mình” mà còn nhận ra sức mạnh của dân tộc Việt Nam, nhận ra vẻ đẹp lạ lùng của thiên nhiên Trường Sơn: “Rừng lạ vẫy lá đỏ”.
Nhiều nhà thơ đã viết về Trường Sơn, về vẻ đẹp, sức mạnh và màu sắc của nó. Tuy nhiên, chỉ có “lá đỏ” nổi bật giữa màu xanh của đại ngàn Trường Sơn lại chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Điều này thật kỳ diệu và đầy ngạc nhiên.
Cơn gió mạnh đã tạo nên trận mưa lá đỏ ào ào tuôn đổ mạnh mẽ và mãnh liệt như sức sống của Trường Sơn. Màu đỏ của lá kết hợp với bức tranh thiên nhiên tạo nên một bức tranh hoành tráng và lãng mạn, lôi cuốn chúng ta, làm rung động lòng yêu nước sâu sắc. Trường Sơn trở thành một biểu tượng thiêng liêng vì nó cũng là con đường của dân tộc Việt Nam ra trận.
Đoàn quân tiếp tục di chuyển vội vàng
Bụi Trường Sơn bay lên trời
Con đường đó đầy khó khăn, gian khổ. “Đoàn quân tiếp tục di chuyển vội vàng” với những bước chân mạnh mẽ, nối tiếp nhau không ngừng, làm như rung động núi non, như “bụi Trường Sơn bay lên trời”, vượt qua mọi trở ngại, vượt qua nắng nôi, lửa đạn để tiến lên phía trước. Câu thơ này miêu tả cảnh hành quân hùng hồn, mạnh mẽ, gợi lên một không khí sử thi ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trong bối cảnh đó, hiện lên một hình ảnh đẹp, một biểu tượng của cuộc chiến tranh nhân dân – “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong. Sự xuất hiện của cô gái trên đỉnh Trường Sơn, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, nhắc nhớ về cuộc chiến đấu toàn dân tham gia, trong đó có những cô gái trẻ xinh đẹp, nhưng họ đã chọn con đường anh dũng.
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường
Thơ của những năm chiến tranh đã vẽ nên nhiều tư thế của người Việt Nam, như: tư thế của người giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất, được mô tả trong thơ của Lê Anh Xuân. Tư thế của “O du kích nhỏ dương cao súng, Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu” (Thơ của Tố Hữu).
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đi dọc Trường Sơn, gặp cô gái tiền phương đứng bên đường, ông vội vàng ghi lại hình ảnh này bằng thơ, một hình ảnh rất đặc trưng, sáng ngời của anh hùng cách mạng Việt Nam. Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” rất bình dị, gần gũi, thân thiết như hình ảnh quê hương. Hình ảnh này cũng là điểm nhấn nổi bật giữa rừng Trường Sơn rộng lớn, như một biểu tượng lịch sử.
Nhưng đoàn quân tiếp tục đi, không ngừng nghỉ, nhà thơ – người chiến sĩ chỉ kịp ghi lại hình ảnh quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn
Người đứng bên đường như một điểm tựa, như một người bạn và đoàn quân tiếp tục hành quân với niềm vui phơi phới, niềm tin vào chiến thắng cuối cùng. Sài Gòn, điểm đến của cuộc tiến công đã gần kề, con đường dẫn đến chiến thắng không còn xa. Sài Gòn, điểm hẹn của nhiều thế hệ người Việt. Lời chào, lời hẹn ấy chứa đựng nhiệt huyết của tuổi trẻ, của lý tưởng độc lập tự do, và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.
Một ví dụ khác
Nguyễn Đình Thi (1924-2003) sinh ra ở Hà Nội, ông là một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và nhạc sĩ nổi tiếng. Thơ của ông thường tự do và phóng khoáng, đồng thời chứa đựng nhiều suy tư sâu sắc và cảm hứng yêu nước. Ông tâm huyết với thể loại thơ, coi nó như là một phần không thể thiếu của cuộc sống và sự nghiệp của mình.
Thơ của Nguyễn Đình Thi thường lấy cảm hứng từ đất nước, từ con người trong thời kỳ chiến đấu cho độc lập. Ông viết về đất nước trong những thời kỳ đau thương và khó khăn, mô tả cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm: Diệt phát xít (1945), Người Hà Nội (1947), Đất nước (1955)……
Bài thơ 'Lá đỏ' được sáng tác vào tháng 12 năm 1974 – thời điểm cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và phương Tây đang ở giai đoạn cuối cùng, toàn quân và nhân dân đang tập trung sức lực cho chiến trường. Nguyễn Đình Thi đã trực tiếp chứng kiến cuộc chiến tranh dữ dội 'giữa vạn tiếng nổ vang vọng trong đêm lửa'. Sự hy sinh và đau thương do chiến tranh gây ra, và lại chính là con người, là những cá nhân phải chịu nhiều thiệt hại nhất…
Tuy nhiên, từ những tổn thất và đau thương ấy lại hiện ra một vẻ đẹp kỳ diệu, lãng mạn của cảnh thiên nhiên Trường Sơn bao la, với màu đỏ phủ trời xanh của lá đỏ. Xúc động trước cảnh thiên nhiên Trường Sơn với lá đỏ bay trong gió, vào khoảnh khắc ấy bài thơ được sáng tác, và trở thành bài ca ra trận dọc theo chiều dài của đất nước. Bài thơ cũng đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát thể hiện vẻ oai hùng của đoàn quân ra trận.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh gặp em trên cao, 'trên cao' ở đây có thể là lúc tác giả đã gặp em từ trên núi cao, đèo cao. 'Trên cao' không chỉ đề cập đến vị trí địa lý mà còn ám chỉ vị trí tình cảm đặc biệt trong lòng tác giả, nơi mà tình cảm ấy được đặt lên cao hơn mọi thứ khác.
Đó là một không gian đẹp, rộng lớn, từ trên cao của nguyên cao, ta cảm nhận được một khoảng không vô tận, bao la. Và điều đặc biệt nhất là hình ảnh rừng lá đỏ ào ào, bay trong gió, nổi bật giữa bầu trời xanh.
Trong bức tranh của bầu trời xanh mát mẻ, sự nổi bật của màu đỏ, màu lá đỏ như làm tăng thêm sức hút cho bức tranh tự nhiên của Trường Sơn giữa lúc khói lửa mịt mù, do bom đạn rơi xuống đất Trường Sơn. Có lẽ chính hình ảnh lá đỏ đó đã đạt đến trái tim của tác giả. Bao nhiêu chiếc lá đỏ đó cũng chính là nơi lưu giữ những tâm tư, tình cảm của tác giả.
Mùa lá đỏ thơ mộng đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên hùng vĩ hơn, và màu đỏ ấy cũng đã tạo ra sức sống cho con đường Trường Sơn trong mùa ra trận. Trong khi đất nước đang chứng kiến cuộc chiến đấu gay gắt, màu lá đỏ như làm cho những người lính trên chiến trường có thêm sức mạnh để chiến đấu vì quê hương, đất nước yêu thương của họ.
Bốn dòng cuối cùng của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn về cuộc gặp gỡ tại Sài Gòn khi đất nước thống nhất.
Chào em, em gái ở phía trước
Hẹn gặp nhau tại Sài Gòn….
Hình ảnh em ở đây không chỉ đại diện cho hậu phương đang dồn sức lực cho chiến trường mà còn là hình ảnh của những người lính đang ở phía trước. Một lời chào ngắn gọn nhưng chứa đựng lời hứa hẹn về ngày tái ngộ khi đất nước đã giành được độc lập.
Chiến dịch cuối cùng của cuộc chiến đó sẽ mang tên Bác, gặp nhau tại Sài Gòn là gặp nhau trong ngày chiến thắng. Không còn khói lửa trên bầu trời nữa mà là cảnh vui mừng rực rỡ khi đất nước ta đoàn tụ và giành được độc lập.
Với thể loại thơ tự do, ngôn từ chân thực, hình ảnh của bài thơ gần gũi và tổng quát hoá được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam. Đặc biệt, hình ảnh lá đỏ tạo ra cảm giác mạnh mẽ, biểu trưng cho niềm tin về chiến thắng của dân tộc. Bài thơ Lá đỏ là một tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bài mẫu 3 (Phiên bản sáng tạo)
Nguyễn Đình Thi là một tài năng hiếm có trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Ông đã viết được văn, kịch, nhạc, phê bình văn học và thậm chí cả thơ. Tuy nhiên, thể loại mà ông đam mê nhất vẫn là thơ, bởi với ông: “Thơ là niềm đam mê, là sự tự do của tôi, và cũng là sự tìm kiếm đầy khổ của tôi”.
Thơ của Nguyễn Đình Thi luôn chứa đựng cảm hứng về đất nước và nhân dân. Ông viết về đất nước trong những thời kỳ gian khó và đau thương, mô tả sự vươn lên mạnh mẽ và rực rỡ của dân tộc, và đặc biệt là bài thơ 'Lá đỏ'.
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Trong câu thơ này, “trên cao” không chỉ ám chỉ vị trí địa lý cao vút (như dốc cao, đèo cao) mà còn biểu hiện vị thế quý phái, cao quý trong tư tưởng và tình cảm. “Cao” ở đây còn có thể hiểu là cao quý, tôn cao.
Câu tiếp theo là “Rừng lạ, ào ào lá đỏ”. Từ “lạ” đã tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, bởi đó là điều lạ lùng khi nhìn thấy lần đầu tiên màu đỏ rực lửa trong mùa thu Tây Nguyên phải không?
“Lạ” là một cảm giác rất đúng, rất thực tế. “Lạ” vì giữa cuộc chiến tranh dữ dội như vậy, lại xuất hiện những người em gái trẻ trung, mảnh mai nhưng vẫn rất kiên cường khi phải đối mặt với hiểm nguy trên đường cho xe đi qua những cung đường khó khăn và cái cảm giác lạ đó bỗng biến mất khi nhà thơ nhận ra hình ảnh của em gái thực sự gần gũi, thân thương bởi đó là em của quê hương, của nơi chúng ta quay về. Thêm vào đó, hai từ “lộng gió” như lòng người mở rộng, niềm tin phơi phới chào đón những luồng gió cách mạng.
Dưới bầu không khí của cuộc cách mạng sôi động và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hình ảnh của phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp mới – vẻ đẹp của những con người đã được giải phóng, được thoát khỏi sự gò bó của truyền thống cũ, để hòa mình vào công cuộc chung của đất nước.
Là những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn: “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường”. Hình ảnh “vai áo bạc” đã gợi lên biết bao kỷ niệm về những ngày mưa gió lửa núi. Thế nhưng, những cô gái mảnh mai đó vẫn vượt qua tất cả để có mặt tại đây, với súng trường quàng trên vai.
Mặc dù ở nơi núi rừng, với mây mù bao phủ, với gió lớn đùa giỡn, với chiều lá đỏ, nhưng ánh sáng của đạn bom rực sáng trên bầu trời, máu, nước mắt, hy sinh, nhưng tất cả đều vì miền Nam ruột thịt, họ vẫn kiên trì, mạnh mẽ bám trụ trên từng dặm đất “… Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”.
Hai câu cuối cùng: “Chào em, em gái tiền phương, ơi em gái tiền phương. Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn!”. Đọc hai câu này, ta như cảm nhận được cuộc gặp gỡ chớp nhoáng với một không khí hồi hộp, nhanh chóng nhưng không kém phần xúc động, rồi để lại cho nhau lời hẹn quyết tâm chiến thắng.
Sự thật và chính nghĩa luôn ở phía chúng ta, với tinh thần dũng cảm của những người con trai, con gái trên dãy Trường Sơn năm ấy đã góp phần làm nên chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi lá cờ Cách mạng được cắm trên dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu sự giải phóng hoàn toàn của thành phố Sài Gòn – Gia Định. Chiến dịch của Hồ Chí Minh đã toàn thắng.
Tái sinh đất nước, những chiến sĩ, những “em gái tiền phương năm ấy” có bao nhiêu người được gặp lại và bao nhiêu người phải lỗi hẹn? Họ ra đi mãi mãi không trở lại. Ôi! những tháng ngày không thể quên, ngày càng nhiều nỗi nhớ, khao khát hiện lên cả trong giấc mơ của những người đồng đội: “Trường Sơn năm đợi tháng trông/ Ngày tìm đồng đội đêm nồng chiêm bao” (Đồng đội – Đinh Ngọc Du).
Những chiến sĩ, những “em gái tiền phương” năm ấy vẫn sống mãi trong tấm lòng biết ơn và trong những chiến thắng của dân tộc hôm nay và ngày mai: “Đất nước/Của những người con gái, con trai/Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt…” (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà).
Bài thơ Lá đỏ sau đó đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Trong những tháng ngày đầy khí thế chiến đấu của quân dân Việt Nam yêu nước, dẫn đến ngày chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, đã đi vào lịch sử, 'Lá đỏ' là một bài ca hào hùng đầy niềm tin và hy vọng, đã đi sâu vào lòng người.
Bài mẫu 4 (Phiên bản sáng tạo)
Trong cuộc Tổng tiến công Xuân 1975, âm hưởng trầm hùng của những đoàn quân nối nhau ra trận, sự xuất hiện của những em gái tiền phương trên chiến trường, cùng niềm tin tất thắng bất diệt trong trái tim Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi.
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Với chỉ 8 câu thơ, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc – hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ là một bức tranh sâu sắc, một bản nhạc trầm hùng trong lòng người lính ra trận.
Nhân vật trữ tình đã đứng ở trên đỉnh cao của dãy Trường Sơn, nơi có thể nhìn thấy cả dãy núi hùng vĩ và cảm nhận được sức mạnh của dân tộc Việt Nam: Rừng lạ ào ào lá đỏ. Ở đây có sự liên tưởng giữa lá đỏ và đoàn quân. Lá đỏ hay chính những trái tim rực lửa căm thù đang ào ào ra trận?
Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trở gió. Gió ào ạt thổi, trút lá đỏ rực trời. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cuối, bước chân hành quân thần tốc của quân ta hối hả ra trận, bước chân đi mạnh mẽ, rung chuyển cả núi đồi, bụi đỏ bay mờ mịt nhòa trời lửa.
Đoàn quân và lá đỏ hòa lẫn trong nhau, nhòa trong khói lửa Trường Sơn, đó là hình ảnh được khắc họa có tính mỹ thuật rất cao, thể hiện sự tài hoa của nhà thơ. Với ngôn ngữ chân thực và nhịp thơ mạnh mẽ, những câu thơ giản dị của Nguyễn Đình Thi đã khắc họa một quang cảnh, một không khí thật hào hùng, kỳ vĩ, mang màu sắc sử thi.
Tuy nhiên, không chỉ có những bước chân hành quân thần tốc, Trường Sơn còn trở nên mềm mại bởi những em gái tiền phương đứng bên đường làm tiền tiêu cho bộ đội. Em đứng bên đường, như quê hương/Vai áo bạc quàng súng trường… Nhịp thơ đang mạnh mẽ bỗng dịu lại, câu thơ dài hơn (7 chữ) như càng khẳng định nỗi xúc động của người lính trên chiến trường.
Em là giao liên, em là TNXP và em chính là hình ảnh quê hương dịu hiền, gần gũi, thân thương, chính là nơi để trở về sau trận chiến này. Hình ảnh em gái tiền phương có thể đã rất nhiều người gặp và đi vào thơ ca, nhạc họa, nhưng cách ví của Nguyễn Đình Thi đã mang đến hiệu quả nghệ thuật độc đáo, nhắc mãi tới mai sau…
Chùng xuống một chút, rồi nhịp thơ lại trở về với giọng điệu hào sảng khi miêu tả bước chân đoàn quân ra trận với niềm tin tất thắng: Chào em, em gái tiền phương/Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
Em gái tiền phương ở lại bên đường như điểm tựa niềm tin và đoàn quân ra đi mang theo hình ảnh dịu dàng, thân thương của quê hương, mang theo niềm tin tất thắng. Trong bước chân ào ào đó, ta như đã nhìn thấy ngày vui giữa Sài Gòn, đã thấy… nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng/Trào vui nước mắt cứ rưng rưng (Tố Hữu). Lời chào, lời hẹn ấy sục sôi nhiệt huyết của tuổi trẻ, chứa đựng lý tưởng độc lập, tự do, dạt dào niềm lạc quan, tin tưởng vào ngày toàn thắng.
Tổ quốc đã hát bài ca thống nhất 48 năm, đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới nhưng những năm tháng chiến tranh khốc liệt thì chưa bao giờ phai nhòa, dẫu vết thương hôm nào đã lành theo năm tháng. Và những vần thơ vút lên từ cuộc chiến anh dũng đó luôn làm sống dậy trong chúng ta tình yêu Tổ quốc, sự biết ơn về những hy sinh cao cả của thế hệ trước.
Bài mẫu 5 (Phiên bản sáng tạo)
Nguyễn Đình Thi, nhà thơ kiên trì, cần cù, đã dành hơn 60 năm cống hiến cho nghệ thuật viết, để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại, nhưng thơ vẫn là niềm đam mê cao nhất của ông. Mỗi bài thơ của ông đều mang phong cách riêng biệt, và “Lá đỏ” là một minh chứng xuất sắc cho sự độc đáo trong cả nội dung và nghệ thuật thơ của Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ này được sáng tác vào năm 1974, thời điểm mà đất nước chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nội dung và cảm hứng chính của bài thơ là niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Nó như một lời dự cảm về một ngày mai tươi sáng của đất nước, khi chúng ta đã giành được độc lập, tự do, hòa bình.
Với chỉ tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước trong cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam.
Bài thơ được viết khi nhà thơ trực tiếp trải qua cuộc sống ở Trường Sơn – điều này cũng là lý do cho những dòng viết chân thực và sống động trong thơ của ông.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh của thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Ta có thể cảm nhận được vị thế của nhà thơ đứng ở đỉnh Trường Sơn, một nơi có thể nhìn thấy rộng lớn và bao quát. Hai từ “lộng gió” tựa như tâm trạng của lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng.
Từ đỉnh núi, ông nhìn thấy cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ “ào ào” gợi lên cảnh một cơn gió mạnh làm cho lá đỏ tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá như màu cờ Tổ quốc, của dòng máu Việt Nam.
Hai câu thơ tiếp theo là về con người, hình ảnh thật đẹp trong chiến tranh:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Sự hiện diện của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã tạo ra một thời kỳ huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, trong đó có cả những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Hình ảnh những cô gái bên đường gợi nhắc về những người thanh niên xung phong, những chiến sĩ đã làm nên lịch sử của đất nước.
Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” giản dị, thân thương. Đó là biểu tượng của những ngày dầm mưa dãi nắng, cũng là hình ảnh nổi bật giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng kháng chiến, Trường Sơn trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân hối hả, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi lên khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Những đoàn quân không ngừng nối tiếp nhau, nhà thơ chỉ kịp ghi lại hình ảnh quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn – cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chứa đựng biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Bài thơ không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, mà còn mang những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc. Hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ được khắc họa sống động, gợi lên vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.
Về nhịp điệu, bài thơ phản ánh nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập, chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống trên chiến trường hiện lên tự nhiên, sống động.
Những cuộc kháng chiến đã qua, thời gian có thể phủ bụi nhưng kí ức về những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ mờ nhạt. Nhiều năm sau, độc giả vẫn nhớ về những năm tháng đó, về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, về hình ảnh những cô gái tiền phương, những chiến sĩ với những bước đi rung chuyển đất trời.
(Nguồn: sưu tầm)