Trong giai đoạn này, mỗi nhà thơ hiện diện với một tư duy và cách thể hiện riêng biệt. Điều này dẫn đến những định nghĩa mới về thơ. Nếu Xuân Diệu nói về việc “ru với gió, mơ với trăng”, thì Hàn Mặc Tử lại tập trung vào việc gánh trên vai nỗi đau của nhân loại.
Những câu hỏi về nỗi đau nhân loại và tư thế của nhà thơ trong thời đại này đã được thể hiện qua những bài thơ của các nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Bính, Huy Cận và Hồ Chí Minh. Trên hết, Hồ Chí Minh đã lột tả một cách sâu sắc nhất về thực tế xã hội thời đó qua bài thơ “Lai Tân”.
Trong bài thơ, Hồ Chí Minh không chỉ nhìn nhận cái xấu của xã hội mà còn chỉ ra những vấn đề đau đớn của nhân loại. Ông nêu rõ những khía cạnh thối nát của xã hội Trung Quốc dưới thời chính quyền Tưởng Giới Thạch. Dù ông tỏ ra không quá quan tâm đến thế giới thơ nhưng với con người, ông không thể lìa xa những điều gây sốc trong xã hội.
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Vì là tù nhân dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, tác giả vẽ nên một bức tranh hiện thực sắc nét. Bức tranh này là một nghịch lý lớn, nhưng trong thi ca, nghịch lý là điều bình thường. Tác giả đã phác họa một cách thông minh về sự nghịch lý trong xã hội và cuộc sống của người tù.
Sự nghịch lý mà Hồ Chí Minh đặt ra mang theo một cảm xúc nóng giận và bực tức. Một xã hội với những người quản lý nhà lao đánh bạc, 'cảnh trưởng' kiếm sống từ việc giải tù nhân, trong khi 'trời đất Lai Tân vẫn thái bình'. Tác giả đặt câu hỏi về sự phản đối và tiếc nuối của tù nhân đối với những điều không công bằng và nghịch lý trong xã hội.
Bên cạnh nghịch lý chính, Hồ Chí Minh còn chỉ ra nghịch lý khác trong việc đánh bạc trong nhà lao, mặc dù xã hội bên Trung Quốc đã cấm việc này. Ông phác họa một cách sâu sắc về những hậu quả của hành động này qua lời ăn năn của một người đánh bạc trong tù.
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quắt chốn này?”
Bài thơ đã tài tình phác họa về sự lạm quyền và khốn nạn của chế độ thời đó. Trong đó, việc bị tù vì đánh bạc của 'con bạc' có vẻ hợp lý và đúng đắn. Tuy nhiên, nghịch lý xuất hiện khi người bắt 'con bạc' lại chính là người cũng đánh bạc. Điều này tạo ra sự nghi ngờ về tính công bằng và đúng đắn trong việc truy cứu tội phạm.
Ngoài vấn đề đánh bạc, bài thơ còn nhấn mạnh về việc hối lộ và những bất cập khác trong nhà tù. Đây là một cái nhìn sâu sắc và góc nhìn chân thực về thực tế tại nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch.
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh” - đoạn này chỉ ra thêm về tình hình hối lộ và việc sử dụng quyền lợi cá nhân của các quan chức trong nhà tù.
Bài thơ cũng nêu bật vấn đề hối lộ, một trong những nét thực tế thô kệch của nhà tù thời đó. Sự trớ trêu và khốn nạn của việc này được tác giả diễn đạt một cách sâu sắc và chân thực.
Tác phẩm tả thực tình trạng phạm nhân phải đối mặt với việc hối lộ khi mới đến nhà lao, một hình ảnh thể hiện sự bất công và thô bạo trong quản lý nhà tù.
Cái gì cũng được nếu bạn có tiền: Đó là thông điệp rõ ràng của câu thơ này. Có vẻ như mọi việc đều xoay quanh tiền bạc và quyền lực, tạo ra một thực tại đầy nghịch lý và trớ trêu.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc” - Một sự biểu hiện của sự phân biệt lớn giữa vị trí cao quý và hành động thực tế của người đứng đầu.
Bài thơ nhấn mạnh về sự đối xử không công bằng và sự thất vọng với những lãnh đạo không đáng tin cậy, không xứng đáng với lòng tin của nhân dân.
Thế giới đen tối ấy không bao giờ có thể đem lại hòa bình. Đó là một sự phản ánh sâu sắc về sự thật đắng cay của một xã hội đầy nghịch lý và thực tế khắc nghiệt.
Dù với những khó khăn và nghịch lý, tác giả vẫn lạc quan rằng thế giới này có thể thái bình. Điều này có thể hiểu là một niềm hy vọng trong những thời điểm khó khăn nhất.
Dường như tác giả muốn nhấn mạnh sự nghịch lý và thực tế khắc nghiệt của chế độ Tưởng Giới Thạch trong bài thơ này.
Hồ Chí Minh qua bài thơ này được thể hiện như một thi sĩ nhạy bén, biết thấu hiểu và đánh giá sâu sắc về xã hội và con người.
Mytour