Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với 17 mẫu phân tích hấp dẫn dưới đây được viết một cách sắc nét, dễ hiểu, giúp học sinh tự học mở rộng kiến thức và nâng cao khả năng hiểu văn. Đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học môn Ngữ văn một cách hiệu quả.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm giúp học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận và phong cách văn hóa phù hợp, từ đó tiếp thu kiến thức sâu rộng hơn về văn học. Ngoài ra, các em cũng có thể tham khảo thêm: Cấu trúc phân tích bài thơ Nhàn, cảm nhận về bài thơ Nhàn và nhiều văn bản khác trong chuyên mục Văn 10.
Cấu trúc phân tích bài thơ Nhàn
I. Khai mạc
- Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà văn đa tài, sống trong một xã hội đầy bất công, ông đã suy nghĩ và trăn trở về cuộc sống con người, và quyết tâm dùng bút để chiến đấu với gian ác.
- “Nhàn” là một bài thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện rõ quan niệm sống của tác giả.
II. Phần Chính
- Hai dòng mở đầu:
“Một buổi sáng/một cuộc đi câu/một dây câu
Thơ trầm tư của ai/ sự thú vị nào”
+ Nhịp điệu của những dòng thơ đầu tạo ra cảm giác thoải mái, bình yên
+ Bằng cách sử dụng các đồ vật quen thuộc của người lao động, bức tranh về cuộc sống nghèo khó nhưng yên bình, bình dị hiện ra.
+ Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một người sĩ tử 'một mình an bần lạc đạo', vượt lên trên lo toan của cuộc sống để tìm kiếm niềm vui của sự tĩnh lặng.
- Câu chính:
- Cách sử dụng phép đối: dại >< khôn, nơi vắng vẻ >< chốn ồn ào, thể hiện sự khác biệt giữa cuộc sống của nhà thơ và người bình thường. Ông cho rằng nơi yên tĩnh là nơi ở làng quê bình yên, nơi không có sự xô bồ của xã hội, đó mới là cuộc sống đích thực.
- Cách xưng hô 'ta', 'người'
Sự đối lập giữa hai khía cạnh nổi bật ý nghĩa, nhấn mạnh triết lý, quan điểm sống độc đáo của tác giả so với điều thông thường. Tác phẩm ẩn ý phê phán tình hình xã hội, tính cách con người, và thể hiện sự kiêu ngạo của người hiền tài.
- Hai câu châm ngôn:
“Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao”
+ Cuộc sống giản dị không cần những điều giàu có, lộng lẫy chỉ cần những sản vật tự nhiên như “măng trúc” “giá” -> Thể hiện cuộc sống an nhàn, bình dị, cao quý, lối sống hòa mình với tự nhiên của tác giả.
+ Sự thú vị của cuộc sống an nhàn được giấu kín, những con người có phẩm chất cao đẹp khi sống trong thời kỳ hỗn loạn để bảo vệ phẩm giá và danh dự của họ chỉ có thể tìm đến trong sự ẩn núp, an nhàn với cuộc sống thường dân, sống hòa hợp với thiên nhiên và vũ trụ.
- Hai dòng cuối:
Ta sẽ thưởng thức rượu bên gốc cây
Thấy phú quý tựa giấc mộng
+ Nhìn nhẹ nhàng vào sự giàu có và sự hoa lệ của cuộc sống, ông coi đó như một giấc mơ tươi đẹp.
+ Cuộc sống cao quý vượt lên trên thế tục
III. Tổng kết
- Quan điểm về cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hưởng thụ niềm vui từ lao động, hòa hợp với thiên nhiên, giữ vững phẩm chất cao quý, tránh xa sự phù phiếm của danh lợi.
Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 1
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà tri thức Nho học nổi tiếng của Việt Nam vào thế kỷ XVI. Ông được biết đến với tư duy sắc bén, nhân cách đạo đức và trí tuệ vượt trội. Trong lịch sử, ông thường được xem như một người biểu tượng của triết lý sống 'nhàn', phản ánh sự đối kháng với sự hỗn loạn của thời đại. Thuật ngữ 'nhàn' là một khái niệm sâu sắc trong tư tưởng của các nhà tri thức Nho học xưa, nhưng mỗi người lại có cách hiểu và biểu đạt về triết lý đó một cách riêng biệt. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ý nghĩa của 'nhàn' không thể bị hiểu lầm hoặc lẫn lộn với bất kỳ ai.
Một mai, một cuộc, một cây cần,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa giấc mơ.
Bài thơ này được trích từ tập 'Bạch Vân quốc ngữ thi', tựa đề bài thơ do người sau đặt. Có thể nói từ thế kỷ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã có những đóng góp, đủ sức duy trì thế song song với văn học chữ Hán. Các nhà Nho học, ngoài việc sáng tác văn chữ Hán, luôn ưu ái cho các tác phẩm văn chữ Nôm. Nếu Nguyễn Trãi có 'Quốc âm thi tập' thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có 'Bạch Vân quốc ngữ thi'. Khi viết thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có ý thức Việt hoá triệt để.
Một mai, một cuộc, một cây cần,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Xét về ngôn ngữ và hình tượng thơ, thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường, thường sử dụng các hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là các hình ảnh cụ thể, đơn giản như mai, cuộc, cây cần. Số từ trong câu thơ trên cũng là con số thực tế chứ không phải là những con số ước lệ. Mai được dùng để đào đất, cuộc dùng để cày xới, cây cần dùng để câu cá. Đó là những dụng cụ làm nông của người dân quê. Với cách điệu số từ một…một…một, tạo nên nhịp điệu chậm rãi, câu thơ thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản dị. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường.
Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao như một người nông dân, bất kể người khác chạy theo niềm vui tạm thời, ông vẫn giữ tinh thần bình thản, điềm đạm với cuộc sống mình đã chọn. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu rằng tư duy 'nhàn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là loại nhàn nhã, lười biếng vì không quan tâm đến cuộc sống. Người xưa thường nói 'nhàn cư vi bất thiện', người quân tử có học không bao giờ để bản thân mình được tha nhân.
Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là người quan từ bỏ cơm áo, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kỳ ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thường bàn nhiều về lẽ đạt - khôn, vấn đề này không mới đối với tâm thức của người Á Đông từ xưa nay, một kiểu triết lý theo tinh thần nhân quả của Phật giáo dân gian:
Ta từ bỏ, ta tìm chốn vắng vẻ,
Người khôn, người đến nơi huyên náo.
Có thể nói cặp câu này đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng phép đối tương phản để khẳng định sự đối lập gay gắt giữa quan niệm sống của ta và người. Nơi vắng vẻ là nơi lánh xa sự ồn ào, tranh chấp, là miền thôn dã hiền hòa là chốn thiên nhiên thuần phác. Chốn huyên náo là nơi quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là chốn thành thị náo nhiệt, giả trá, lừa dối. Ta từ bỏ danh lợi, tiền tài để trở về thiên nhiên, miền thôn dã chấp nhận cuộc sống ngheo khó nên ta tự nhận mình từ bỏ.
Người sống trong vòng danh lợi xô bồ nên người tìm đến chốn quan trường náo nhiệt mà tìm sự thăng tiến, đua đoạt quyền lực, địa vị, người nghĩ rằng mình khôn. Nhưng hai câu thơ là một cách nói miễn cười ngược lại, kẻ tưởng mình khôn mà hóa ra là từ bỏ, kẻ nhận mình từ bỏ thật ra là khôn. Nguyễn Bỉnh Khiêm có 2 câu thơ khác cắt nghĩa điều này rõ hơn.
Khôn mà ác hiểm là khôn từ bỏ,
Từ bỏ vốn hiền lành ấy từ bỏ khôn.
Sống trong một thời đại mà triều chính nhiễu nhương, vua không anh minh lại thiếu bề tôi hiền thì liệu cái chí tu, tề, trí, bình của một người tri thức Nho học chân chính có thể thực hiện được chăng? Muốn tồn tại trong bối cảnh nhà Mạc đương thời, kẻ làm quan như Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có thể đứng đầu trước thời cuộc để yên thân hoặc chấp nhận đánh mất khí tiết, vào lòng ra cuối, xuôi theo bọn gian thần xu niễm để được thăng tiến. Chốn quan trường, chốn thành thị nói chung là nơi con người phải tranh chấp, phải hơn thua, phải dùng trí xảo, mưu mô để đạp lên nhau mà sống và dành lấy địa vị...
Chốn huyên náo là môi trường dễ khiến kẻ si đánh mất khí tiết và nhân phẩm, thậm chí trở nên tàn độc hại người. Cái khôn ấy là cái khôn thâm ác, xảo trá, theo quy luật nhân quả sớm muộn cũng sẽ gặt lấy quả báo và đánh mất đi chính mình. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống ẩn dật, ông tự nhận mình dại vì chê danh lợi nhưng đó là cái dại thức thời, cái dại của kẻ hiểu được quy luật vẫn xoay của thế sự nhân sinh… Ông từ bỏ tất cả để đổi lấy trạng thái bình yên, thanh thản của tâm hồn, giữ vững khí tiết của người có học…
Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xét ở một khía cạnh nào đó chỉ là một phản ứng bất đắc dĩ đối với thời cuộc để giữ gìn nhân cách của mình chứ nó không phải là lý tưởng sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là bậc đại Nho bước ra từ cửa Khổng sân Trịnh, ông hiểu sâu sắc triết lí nhập thế để giúp đời, nhưng thời cuộc đảo điên, sau lần dâng sớ đề nghị chém 18 tên lỗng thần không thành, ông hiểu rằng mình đành bất lực và từ quan là sự lựa chọn đúng đắn nhất, không thực hiện được hào bảo cao cả thì ít ra còn giữ gìn được phẩm tiết.
Nếu như Nho giáo đề cao tinh thần nhập thế cứu đời, đề cao kỉ cương, phép tắc thì Lão – Trang lại muốn tháo tung hết mọi sự ràng buộc, tự nhiên nhí nhố mà sống. Thế nhưng cả hai tư tưởng này không hề loại trừ nhau mà trở nên căp đôi trọng tôn tại song song trong nền văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam thời xưa.
Các tri thức Nho học Việt Nam một mặt nhất quán tinh thần nhập thế, trả nợ công danh nhưng sâu trong tâm hồn lại khát khao trở về với thiên nhiên, sống cuộc sống tiêu dao tự tại. Họ nhập thế không phải đua đòi quan lộc để được vinh quy bái tổ mà để lo cho dân, bản lai diễn mục của họ vẫn là con người yêu chuộng thiên nhiên, xem nó là bản thể, là thiên đường của sự sống thực sự.
Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá,
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao.
Hai câu thơ kể về bức tranh tứ bình bốn mùa tuyệt đẹp về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu luận này, phép đối tương hỗ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Ta chú ý đến hai động từ chính trong 2 câu thơ: ăn / tắm. Đó là 2 nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đơn giản, chỉ cần ăn đủ để sống và tắm để sạch.
Cuộc sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Hay nói đúng ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng này, rất thong dong, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri tuệ”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà tri;
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
(Cổ thi – TQ)
Nguyễn Bỉnh Khiêm không cần ăn ngon, chẳng màng ăn no, không cần mặc ấm, bởi người tri thức Nho học luôn thấm nhuần đạo lí: quân tử thực vô câu bão, cư vô câu an. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cuộc sống lao động vất vả nhưng lạc quan, ông nhìn cuộc sống ấy rất thích vị.
Khi so sánh với vẻ đẹp sống nhanh của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta lại thấy, 4 câu thơ trên gợi tả sự hưởng thụ có phần sang trọng (dĩ nhiên là sự hưởng thụ chính đáng, giản đơn) còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lại gợi tả cuộc sống nhan mộc mạc hơn, ông chỉ hướng đến những nhu cầu tối thiểu để sống chứ không dệt nên kiểu sống thoát ly vương giả (ngao du, uống rượu, làm thơ).
Bốn câu thơ trên chủ về gợi tả nếp sống phong lưu, tiêu dao tự tại; tứ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về vẻ đẹp đơn giản, trong lành, thuần lẻ tự nhiên. Trong sự cộng hưởng với tâm thức người xưa, cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có sắc thái khác lạ của riêng nó.
Phần hai câu kết được viết theo lối dụng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuận Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hoè để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự.
Nhàn không phải là một lý tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười nhát. Nhàn là không để lòng vây bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm. Bằng chứng là khi từ quan Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tham vấn chính sự cho nhà Mạc. Nhàn vừa là một khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm thức của những nhà Nho có nhân cách vừa là một kiểu phản ứng của người tri thức với thời cuộc đảo điên.
Bởi vì nhận ra mình không thể thực hiện được lý tưởng của thánh hiền dạy nên đành thức thời lui một bước. Phải hiểu như thế mới thấy rằng tư tưởng Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tích cực hay ít kỉ như những kẻ có suy nghĩ máy móc, học thuộc lòng tư tưởng Mác - Lênin mà hiểu không tới nơi dám lên giọng chê bai Nguyễn Bỉnh Khiêm và tinh thần Lão Trạng.
Tâm niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không mất đi sự hiển lập của Nho học, mà thậm chí còn hòa hợp với triết lí của Lão Trang và Phật giáo. Đó là những giọt nước tinh khiết kết tinh từ vẻ đẹp toàn diện của ba tôn giáo, vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Ai hiểu biết sâu sắc về triết học Trung Hoa sẽ không cầm cự phê phán Nguyễn Bỉnh Khiêm làm phản đối, ít nhất vì Khổng Tử đã từng nói: người giả không thể nạo thuỷ, người chân không thể nạo sơn.
Trong tiếng Hán, từ tiên (thiên thần) được hình thành từ chữ nhân và chữ sơn. Trở về với thiên nhiên chính là sự thuần khiết ẩn chứa sâu trong tâm hồn của người Á Đông từ xưa. Người hiền học muốn đạt được lòng nhân từ (tình yêu thương con người) và đạt được tâm chính mình thì cần phải hòa mình với thiên nhiên, thiên nhiên chính là bản chất, là bản lai diễn mục của con người.
Phân tích mẫu 2 về học sinh giỏi nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà thơ vĩ đại, một nhà tri thức Nho học tiêu biểu của nước ta vào thế kỷ XVI. Nếu nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, người ta nghĩ đến phong cách thơ với triết lý giáo dục sâu sắc, việc khen ngợi tinh thần anh hùng và yêu thương hòa nhã của quân sĩ; đồng thời chỉ trích những điều tiêu cực trong xã hội. Một minh chứng cho phong cách đó là bài thơ 'Nhàn'. 'Nhàn' là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Trạng Trình về thơ triết lý, được rút từ tập 'Bạch vân quốc ngữ thi', có thể đã được sáng tác trong thời gian tác giả giữ chức vụ ẩn dật. Bài thơ chính là lời tuyên bố cho một quan niệm sống giữa một thời kỳ xã hội phong kiến đang rơi vào khủng hoảng. Đó là lối sống nhàn nhã, sống cao quý, hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên cái xấu xa, phổ thông của cuộc sống xô bồ, với tầm nhìn danh lợi.
Trong văn học trung đại đặc biệt và lịch sử dân tộc nói chung, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vị trí đặc biệt. Ông sống suốt cả một thế kỷ, chứng kiến những biến động, thăng trầm của lịch sử. Ông học hành, thi đỗ vào quan nhưng thời gian phục vụ quan lại rất ngắn so với cuộc đời của ông. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với đời sống văn hóa, chính trị của nước nhà trong khoảng thời gian đó là không nhỏ. Cho đến ngày nay, vẫn có nhiều câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết về ông cho thấy sức ảnh hưởng của ông đối với cả triều đình lẫn nhân dân. Trạng Trình không chỉ được mọi người yêu quý, kính trọng mà còn được vua quan lúc ấy rất tin tưởng, thường xuyên hỏi ý kiến của ông. Thế kỷ XVI là thời kỳ bắt đầu sụp đổ của triều đình phong kiến, chính trị nước nhà có nhiều biến động. Nguyễn Bỉnh Khiêm vì không muốn bị cuốn vào danh lợi đã rút lui khỏi cung điện, quay về với thiên nhiên, xây dựng chùa miếu, lập trường học để giảng dạy. Sự uyên thâm và thông tuệ của ông đã được truyền dạy cho các thế hệ học trò, một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của ông đối với đời sống văn hóa của nước nhà lúc bấy giờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một trong những tác giả nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI với những bài thơ giàu triết lý, thể hiện nhân cách cao đẹp của ông. 'Nhàn' như một cuộc trò chuyện nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về tư tưởng sống của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bài thơ khai mạc bằng hình ảnh thể hiện cuộc sống nhàn nhã, thong thả của tác giả:
“Một ngày, một cây, một đường đi
Ngồi mộng mơ dầu mừng điều gì”.
Bằng cách sử dụng từ 'một' kết hợp với hình ảnh: 'ngày', 'cây', 'đường đi' cùng với cách ngắt nhịp 2/2/3 đều, chậm vừa phải, câu thơ đầu tiên diễn tả trạng thái thong thả, ung dung của nhà thơ khi quay về làng quê. Trước mắt là hình ảnh của một người nông dân với những công việc hàng ngày, làm quen với những dụng cụ của nông dân. 'Một' vẫn là từ chỉ số ít nhưng được lặp lại kết hợp với phép liệt kê gửi ra sự đầy đủ, sẵn sàng. Những dụng cụ này được bày ra tạo cảm giác thân thiện, quen thuộc. Tác giả đã đưa vào thơ ca hình ảnh giản dị, thường nhật chứ không chỉ là những điển tích đã cũ trở thành mẫu mực của thơ Đường. Cuộc sống lao động được mô tả rõ ràng nhưng lại không gợi lên cảm giác mệt mỏi, khổ sở mà lại thể hiện sự ung dung, niềm vui của nhà thơ. Vui vì được làm việc, được sống giản dị như bao người dân bình thường khác. Không chỉ thế, sau những giờ lao động, câu thơ còn diễn tả phút giây thư giãn thú vị của nhà thơ. Hình ảnh 'đường đi' gợi lên một niềm vui và những khoảnh khắc yên bình. Cuộc sống của nhà thơ không chỉ là chuỗi ngày lao động, mà ông còn được nghỉ ngơi, thư giãn với niềm vui của mình. Câu thơ như gợi lên một người nông dân không để ý đến cuộc sống xô bồ, tấp nập bên ngoài. Ung dung được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai 'Ngồi mộng mơ dầu mừng điều gì'. 'Mộng mơ' là một cách diễn đạt hình ảnh về tư thế, dáng điệu chậm rãi thoải mái. Trong tư thế 'mộng mơ' như có cả trạng thái không tính toán, không bon chen, không gánh nặng. Đó là một cuộc dạo chơi không có mục đích nhưng lại rất tự do. Tác giả dùng biện pháp đảo ngữ đẩy từ 'mộng mơ' lên đầu câu như càng nhấn mạnh hơn phong thái ung dung, khác biệt của mình với thế giới xung quanh. Nhịp thơ 2/5 như chia câu thơ thành hai phần, một bên là trạng thái 'mộng mơ' của trạng Trình với một bên là 'dầu mừng điều gì' - chính là cuộc sống bên ngoài, là sự lựa chọn của đám đông. Trong lời thơ không có một chút băn khoăn, đắn đo nhưng là lời khẳng định chắc chắn lại nhẹ nhàng của một người đã hiểu biết về triết lý cuộc đời và thấu hiểu về mong muốn của bản thân. Câu thơ không có chủ ngữ nhưng vẫn gợi được sự đối lập giữa người thơ trữ tình với 'người' kia. Nếu câu thơ đầu tiên mô tả sự việc thì câu thơ thứ hai lại ẩn chứa nhiều cảm xúc. Vẻ đẹp giản dị tự nhiên của bài thơ được thể hiện qua lựa chọn từ ngữ, giọng điệu thơ. Các từ ngữ dân dã, giản dị được sử dụng kết hợp với cấu tạo câu thơ như một lời nói tự nhiên trong cuộc sống, tạo ra nét nghệ thuật độc đáo. Chính xác như Phan Huy Chú đã nhận xét: 'Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời'. Như vậy hai câu thơ đầu tiên trong bài thơ gợi lên sự nhàn nhã trong lao động, trong cuộc sống và sâu hơn nữa là sự nhàn của một tâm thế.
Nếu hai câu thơ đầu tiên trong bài thơ mô tả tâm trạng nhàn nhã của một kẻ sĩ thì hai câu thơ sau lại dẫn dắt đọc giả tới một khía cạnh khác của sự nhàn: đó là sự nhàn trong lựa chọn:
“Ta cứ điên dại, chọn chốn hiu quạnh,
Người khôn ngoan, đến nơi xô bồ”.
Hai câu thơ này đã phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại. Hai câu thực lại thực hiện chức năng của hai câu luận, mở rộng bàn bạc về nhàn, về những lựa chọn của bản thân. Hai câu thơ đã khai thác triệt để phép đối. Một bên là “ta” với “dại” ở nơi “vắng vẻ”, một bên là “người”, là “khôn”, là “chốn lao xao”. Cặp câu thơ này không chỉ mang sự đối lập về từ loại mà còn là sự đối lập ý, về những lựa chọn, những lối sống. “Ta” muốn sống ở nơi vắng vẻ hay chính là tìm đến chốn thiên nhiên thuần khiết để sống tự do, an yên, để giữ cho tâm hồn thảnh thơi, nhân cách thanh tao. Đó không phải là lánh đời, là xuất thế mà là cách lựa chọn để làm những điều mình thích, để rũ sạch bụi trần. Còn “người”? “Người” thì tới “chốn lao xao” hay chính là nơi quan trường ồn á, xô bồ, nơi danh lợi bon chen. “Chốn lao xao” phải chăng chính là nơi quan trường, là nơi con người chạy đua, tranh giành về quyền lợi, vật chất, tiền tài. Vì những danh lợi đó mà ở chỗ lao xao con người sẵn sàng làm mọi hành động trái với luân thường đạo lý để đạt được mục đích của riêng mình. “Nơi vắng vẻ” gợi đến vùng quê dân dã, gắn liền với thiên nhiên, mang lại cho con người cái “an”; còn “chốn lao xao” lại là đua chen quan trường hay chính là ẩn chứa cái “nguy”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là “dại” còn cho rằng người là “khôn” vì dại – khôn đối lập nhau mà những lựa chọn cũng trái ngược hẳn. Dại – khôn đã nhiều lần được Trạng Trình nói tới trong thơ của mình như một cách nói người đầy ẩn ý, sâu sắc lại pha chút mỉa mai. Đã có lần ông viết:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại mà thật thà ấy dại khôn”.
“Dại” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái “dại” của một bậc đại trí, với trí tuệ lớn, nhân cách đẹp. Ông thấu tỏ lẽ thịnh suy, vong tồn của một cuộc đời để chọn lối sống thanh thản tự nhiên. Vậy nhàn chính là một lựa chọn, một lối sống thể hiện sự mẫn tiệp và minh triết trong trí tuệ của bậc đại hiền triết Nguyễn Bỉnh khiêm.
Nhàn không chỉ là những thứ trừu tượng xa xôi, nhàn còn ở ngay trong những sinh hoạt đời thường, trong những cảm nhận về cuộc sống xung quanh tươi đẹp:
”Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
“Trong tình cảnh mới, tâm hồn người tỏ ra đầy ác ý
Khó giàu nhưng dễ mất,”
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, một tài năng vượt trội, tài lẻ chỉ là hồi ức thoáng qua. Ông từng trải qua thời kỳ vinh quang, nhưng danh vọng và tài sản không phải là ưu tiên của ông. Ông coi phú quý như một giấc mộng, một lời thanh tỉnh, biến mất khi con người tỉnh giấc. Điều này phản ánh nhân cách cao quý và sự thông thái của ông. Hai từ “đến,” “sẽ” đều thể hiện sự chấp nhận, không phải tiếc nuối như Thuần Vu Phần ngày xưa. Sự ung dung trong ý thức của ông một lần nữa làm nổi bật Nguyễn Bỉnh Khiêm. “Nhìn xem” là góc nhìn từ bên ngoài, từ góc độ cao hơn, một cách đánh giá chính xác hơn. Do đó, trong ánh nhìn “nhìn xem” chứa đựng sự sáng suốt, xa lánh vật chất, đánh giá cao hơn với những kẻ tham lam.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoát khỏi vòng quay đó để tận hưởng niềm vui cá nhân. Nhưng liệu việc ông tìm đến rượu có phải là để buồn phiền, để quên đi? Có vẻ như đó là một bí mật được giấu kín. Dù là người theo lời Phật nhưng không thể hi sinh, việc sống cô đơn chỉ là sự cần bất khả tránh, ông chọn sự lánh đời không phải để tránh xa cuộc sống mà để giữ gìn nhân cách, xa lánh vật chất không phải để lìa xa cuộc sống, đất nước, và nhân dân.
Do đó, ẩn mình không chỉ là trạng thái, một phong cách sống mà đó là một quyết định, một phẩm chất, một trái tim. Ẩn không phải là lánh đời mà là xa lánh danh vọng, thoát khỏi vòng quay của sự tham lam. Ẩn không phải là trốn tránh thế tục mà là để tôn trọng nhân cách, sống tự nhiên theo lẽ đời, theo những kiến thức sâu sắc về con người, về cuộc sống.
Với sự sáng tạo và sự phá vỡ những ranh giới, vừa lịch lãm vừa giản dị, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một lối sống cao quý, phê phán vật chất. Ông đề cao cuộc sống bình dị hòa hợp với tự nhiên, sống theo lẽ tự nhiên. Đó là lối sống của những người có nhân cách thanh cao, tư duy cao quý của một nhà nho trong tư duy của một nhà suy tôn. Chính những nét đặc trưng ấy đã làm cho bài thơ vượt qua mức độ của một bài thơ giáo huấn để trở nên lôi cuốn hơn. Nó không chỉ phản ánh nhân cách của nhà thơ mà còn truyền đạt những cảm xúc chân thành sâu sắc. Bài thơ 'Ẩn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể đã vượt qua thử thách của thời gian để sống mãi trong tâm trí của độc giả, vượt qua khoảng cách về thời đại và văn hóa để trở nên hấp dẫn hơn.
Phân tích bài thơ Nhàn - Mẫu 3
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là một nhà học uyên thâm. Mỗi khi nhắc đến ông, mọi người sẽ nghĩ ngay đến câu chuyện, ông từng đề nghị chém đầu mười tám lạng thần nhưng không thành công, sau đó ông đã quyết định rời bỏ chức vụ quan lại về quê. Với các học trò của mình, ông được biết đến với danh hiệu Tuyết Giang Phu Tử. Ông là một người có tri thức sâu rộng, cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm tinh thần triết lí, ca ngợi lòng can đảm của người quân tử và niềm vui bình dị, đồng thời phê phán những vấn đề trong xã hội. Khi ông qua đời, ông để lại một tập thơ viết bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; một tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và bài thơ 'Nhàn' trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ này ca ngợi niềm vui trong cuộc sống bình dị, làm ta thấy được vẻ đẹp chân chính và sự giản dị của ông trong làng quê.
'Một ngày, một chiếc câu, một dòng sông
Thơ thẩn, không ai có thể biết niềm vui của mình
Ta ngốc nghếch, tìm kiếm nơi yên bình
Người khôn ngoan đến những nơi hối hả
Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá
Xuân vui chơi cùng hoa sen, hạ bơi trong ao
Khi rượu đến, ta sẽ uống dưới bóng cây
Nhìn xem, phú quý như giấc mộng.'
Hai câu đầu đã mô tả cách một cuộc sống đơn giản như thế nào
'Một ngày, một chiếc câu, một dòng sông
Thơ thẩn, không ai có thể biết niềm vui của mình'
Trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã miêu tả một hình ảnh của một ông nông dân sống nhàn nhã. Bằng cách sử dụng từ 'một', tác giả nhấn mạnh lối sống đơn giản và gần gũi của người nông dân. Từ 'thơ thẩn' trong câu thứ hai mô tả hành động của một người ngồi một cách thong thả và sâu lắng. Áp dụng vào cuộc đời của tác giả, chúng ta có thể thấy thời gian ông dành cho nhàn rỗi nhất là khi ông trở về quê nghỉ ngơi. Từ 'vui thú nào' một lần nữa nhấn mạnh chủ đề của bài thơ, là về cuộc sống nhàn nhã mặc cho mọi người muốn sống trong thị trấn sôi động. Hai câu đầu tiên không chỉ giới thiệu đề tài mà còn miêu tả tinh thần thoải mái và hạnh phúc của người nông dân.
'Ta ngu dại, tìm kiếm nơi yên bình
Người khôn ngoan đến những nơi náo nhiệt'
Hai câu thơ thể hiện ý định của tác giả về cuộc sống nhàn nhã và sử dụng các từ đối lập như 'ta'_'người'; 'ngu dại'_'khôn ngoan'; 'nơi yên bình'_'nơi náo nhiệt'. Từ những từ đối lập đó, tác giả đã thể hiện quan điểm sống của mình. Nhân vật chính tự ý chọn tìm kiếm nơi yên bình để sống một cuộc sống bình yên, bất kể mọi người muốn sống trong sự ồn ào của thành phố. Hai câu thơ đã đề xuất hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự mô tả mình là 'ngu dại' vì chọn cuộc sống bình dị, xa xôi để bảo vệ tinh thần thanh thản của mình. Lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh trách nhiệm mà là một cách thể hiện tinh thần cao cả và sự độc lập tinh thần.
'Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao'
Hai câu này liệt kê các loại thức ăn tự nhiên có sẵn trong suốt mùa trong năm. Mỗi mùa có một loại thực phẩm phù hợp, mùa thu thường có măng tre và măng trúc, mùa đông khi thực phẩm trở nên đắt đỏ. Câu thơ 'mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao' gợi lên hình ảnh của cuộc sống dân dã. Từ đó, chúng ta có thể cảm nhận được tác giả sống thong thả, hòa mình vào thiên nhiên, thưởng thức mọi vẻ đẹp của tự nhiên mà không cần tranh giành. Đặt bài thơ vào ngữ cảnh của thời kỳ đó, lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ sự thanh thản của tâm hồn, là một lối sống tích cực phản ánh thái độ cao cả của người cư sĩ Bạch Vân.
'Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống
Nhìn thấy phú quý như một giấc mơ.'
Hai dòng thơ đã thể hiện cái nhìn sâu sắc của một nhà triết học, với sự sáng tạo từ hình ảnh truyền thống của thuần hóa Vu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý không phải là một ước mơ vì ông đã có những thành công và danh vọng trong triều đình, nhưng ông không coi chúng là mục tiêu sống. Thay vào đó, ông xem chúng như một giấc mơ không thực tế và tìm kiếm cuộc sống bình yên để giữ vững phẩm chất cao quý của mình.
Từ bài thơ, ta có thể hiểu được quan điểm sống bình yên và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người coi thường vật chất và luôn giữ tâm hồn thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên. Bài thơ cũng phản ánh lối sống của những nhà triết học giàu lòng yêu nước nhưng phải sống ẩn dật do hoàn cảnh. Sử dụng ngôn ngữ gần gũi, mộc mạc nhưng sâu sắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tài năng với thể thơ Nôm, sử dụng linh hoạt các hình thức thơ truyền thống.
'Nhàn' là một bài thơ tuyệt vời viết bằng chữ Nôm trong văn học Trung đại Việt Nam, thể hiện quan niệm sống cao quý và sự trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm, giữ được giá trị cho đến ngày nay.
Phân tích về bài thơ Nhàn - Mẫu 4
Nguyễn Bỉnh Khiêm, người có hiểu biết sâu rộng, từng trải qua sự nghiệp quan trọng nhưng vì bất công trong chính trị, ông đã rút lui về cuộc sống ở nơi yên bình, thư thả. Ông cũng nổi tiếng là một nhà thơ với hai tập thơ lớn, viết bằng tiếng Hán và tiếng Nôm. Bài thơ “Nhàn” được lấy từ tập thơ “Bạch Vân am thi tập”. Bằng cách sử dụng thể thất ngôn bát cú đường luật, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tâm trạng hạnh phúc và thanh thản của mình trong cuộc sống nông thôn.
Bài thơ “Nhàn” tràn đầy niềm vui và sự thanh thản trong tâm hồn tác giả, là trung tâm của bài thơ. Dù chỉ gồm 8 câu thơ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo ra hình ảnh một cuộc sống an nhàn và bình yên ở nông thôn.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ mộc mạc:
Mỗi sớm một chuyến, một cây câu
Thảnh thơi ai cũng tìm niềm vui ở đâu
Với việc lặp lại từ “mỗi” và “một”, bài thơ vẽ ra một khung cảnh giản dị, bình yên ở vùng quê nghèo, thể hiện sự thanh tịnh và bình yên của tâm hồn cùng với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người nông dân bình thường, thư thả với thú vui đơn giản như câu cá và làm vườn. Cuộc sống như thế được nhiều người mong ước, nhưng không phải ai cũng có cơ hội trở về với cuộc sống đồng quê như vậy. Điều đó làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trở nên đặc biệt và được nhiều người ngưỡng mộ.
Các dòng thơ tiếp theo chi tiết hóa rõ hơn hình ảnh của “lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm”.
Ta ngu ngốc tìm chốn yên bình
Người khôn ngoan đến nơi hối hả
Đây có thể coi là tuyên bố sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi rút lui vào ẩn. Ông tự nhận mình “ngu ngốc” khi tìm nơi yên bình để sống, nhưng điều này lại khiến nhiều người ghen tỵ và kính trọng. Ông tài tình trong việc sử dụng từ ngữ đặc biệt, tường minh hết phong thái của mình. Ông cho rằng những người chọn con đường quan trọng là “khôn ngoan”. Một cách khen ngợi tinh tế, một lời khen mà cũng là lời chỉ trích, thậm chí là khen bản thân và chỉ trích người khác. Hai câu thơ trong đó hoàn toàn tương phản về ngôn ngữ và ý nghĩa “ngu ngốc” – “khôn ngoan”, “yên bình” – “hối hả”. Việc Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm kiếm nơi yên bình có phải là trốn tránh trách nhiệm với quốc gia hay không? Với thời đại và tinh thần của mình, “nơi yên bình” thực sự là nơi mà ông chọn để sống suốt đời. Một tinh thần cao quý, một tâm hồn đáng kính trọng.
Hai dòng thơ trên đã mở ra cho người đọc một cảnh quan về cuộc sống giản dị, bình dị và cao quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm sen, mùa hạ tắm ao
Một cặp câu thơ đã mô tả chi tiết cuộc sống hàng ngày và đồ ăn của “lão nông nghèo”. Mọi mùa đều có thực phẩm tương ứng, dù không xa hoa nhưng đồ ăn này mang hương vị quê hương sâu sắc, làm tác giả cảm thấy an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên núi, mùa đông ăn giá. Chỉ cần vài nét, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khen ngợi thiên nhiên phong phú của Bắc Bộ. Đặc biệt, câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” mô tả nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh kịp. Một cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, một mối quan hệ hòa mình tuyệt vời.
Hai câu thơ cuối cùng như tổng kết tinh thần, tính cách và suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa giấc mơ.
Hai dòng thơ này phản ánh triết lý và cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ẩn dật. Với một người tài năng như ông, phú quý không phải là một ước mơ xa xỉ. Dù ông có giàu có, nhưng ông không chú trọng vào vật chất. Đối với ông, phú quý chỉ như một giấc mơ, một điều không thực sự tồn tại. Đây là cách nhìn sâu sắc và triết lý nhất. Với một con người yên bình và thanh thản, phú quý chỉ là hư không, ông yêu nước nhưng im lặng. So sánh độc đáo này đã tạo ra hai dòng thơ cuối cùng hoàn hảo nhất.
Với chỉ 8 dòng thơ, bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục tính cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, yêu sự thanh bình và trân trọng phẩm chất, ông là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ có cấu trúc chặt chẽ, nhưng vẫn chứa đựng sâu sắc và cảm xúc. Đến nay, ông vẫn được nhiều người ngưỡng mộ.
Phân tích Nhàn - Mẫu 5
Trong lịch sử, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nổi tiếng với học vấn uyên thâm. Sau khi đỗ Trạng Nguyên vào năm 1535, ông phục vụ dưới triều nhà Mạc. Tuy nhiên, vì cuộc chiến tranh và bất ổn chính trị trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn, ông đã quyết định rời bỏ chức vụ và trở về quê ở ẩn. Cuộc sống của ông từ đó trở nên yên bình và thanh nhàn. Tập thơ của ông, trong đó có bài thơ Nhàn, phản ánh tinh thần sống thanh tao của một nhà văn trí thức coi thường danh lợi và phú quý, xem chúng như những điều vô nghĩa và không đáng giá để theo đuổi.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh quan quen thuộc và yên bình của làng quê Đồng bằng Bắc Bộ:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Câu thơ này đặt ra những hình ảnh đơn giản về cuộc sống hàng ngày của người nông dân: một chiếc mái, một cái cuốc để làm đất, và một cây cần câu để câu cá - thú vui giản dị của họ. Tác giả sử dụng từ 'một' kết hợp với các dụng cụ lao động quen thuộc để diễn đạt sự gắn bó và quen thuộc của con người với công việc nông nghiệp. Sự thong thả và bình yên của tác giả cũng được thể hiện qua cách ngắt nhịp 2/2/3 trong câu thơ.
Chỉ với vài nét mô tả ban đầu, bức tranh về cuộc sống bình dị của lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được vẽ nên. Một cuộc sống chất phác, gắn bó với những công việc nông nghiệp hàng ngày, đầy mênh mông và cay đắng. Dù từng là quan Trạng Nguyên, sống trong sự sung túc và quyền lực, ông đã dũng cảm rời bỏ tất cả để trở về với cuộc sống tự lập. Trước sự hám danh và lợi ích, ông chọn con đường giản dị nhưng tao nhã, và từ đó, ông cảm thấy hài lòng và tự hào với quyết định của mình.
Câu thứ hai với 'thơ thẩn' thể hiện sự thoải mái và thong thả của tâm hồn khi không bị cuốn vào vấn đề vật chất. Tâm trạng tự tin và quyết đoán được thể hiện qua cụm từ 'dầu ai vui thú nào'. Cuộc sống yên bình và thanh thản không bị áp đặt bởi ham muốn và toan tính, tạo cho ông cảm giác thoải mái và đúng đắn.
Hai câu đề mở đầu đã khắc họa không gian sống yên bình và giản dị của làng quê Đồng Bằng Bắc Bộ, nơi mà Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm lại cuộc sống tự nhiên của mình. Không còn sự áp đặt của quyền lực, không còn sự e sợ của người phục vụ. Tất cả đều được xóa bỏ, chỉ còn lại một lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm sống vui vẻ và lạc quan trong cuộc sống bình dị và chân thành của người dân quê.
Hai câu này thể hiện một quan niệm sống mới mẻ: trở về với tự nhiên để hòa mình với thiên nhiên. Đây cũng là cách thoát ra khỏi vòng xoáy của vật chất và danh vọng, để tâm hồn được thanh thản và bình yên.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Tài năng của thi nhân hiện ra qua việc sử dụng phép đối chiếu độc đáo: ta- người, dại- khôn để nhấn mạnh quan điểm triết học sâu sắc, sâu xa của thi nhân. Thực chất, đây là một cách biểu đạt ngược để diễn tả sự coi thường danh lợi, chỉ trích lối sống tham vọng quyền lợi, tiền bạc của những kẻ tham quan ô lại.
Chính nhà thơ đã nhiều lần khẳng định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Vì những người tham vọng thường dùng lẽ dại- khôn để tính toán, đấu tranh vì ưu thắng, vì thế cách diễn đạt này thực chất là để thể hiện những ham muốn thấp hèn của con người. Nơi vắng vẻ thực chất là một nơi yên ả với cuộc sống thanh bình hòa hợp với thiên nhiên hiền hòa, mang lại sự thoải mái cho tâm hồn con người.
Còn nơi lao xao là chốn của những thế lực mạnh mẽ luôn tỏ ra uy nghi để tranh đua quyền lực, đầy xa hoa phù phiếm. Nơi đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn phải e dè, sống trong lo sợ và sự bất an cho bản thân và gia đình.
Từ đó cũng thể hiện một sự trêu đùa hóm hỉnh: dại thực chất là khôn, còn khôn thì lại trở thành dại trong tư duy độc đáo của nhà thơ. Trong một bài thơ Nôm khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Qua câu thơ trên, người đọc hiểu rõ hơn về triết lí sống và phong cách sống đáng ngưỡng mộ của một bậc Đại Nho, theo tư tưởng “lánh đục về trong”, mong muốn cuộc sống an nhàn, hạnh phúc, sống chân thật của thi nhân.
Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân trang nhã mà cao quý khiến mọi người đều ngưỡng mộ:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Bức tranh thiên nhiên bốn mùa về cuộc sống thanh cao, gắn bó hòa hợp với thiên nhiên của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê hương hiện ra thật đáng khen ngợi. Câu thơ vẽ lên hình ảnh của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và cách sống giản dị của nhà thơ.
Vốn là một quan Trạng sống phú quý, sung túc, được triều đình ưu ái, giờ đây lại phải lao động, tự nuôi sống bản thân và sinh hoạt như một người nông dân bình thường: ăn những thức ăn quê mùa, như măng trúc, giá, đều làm từ vườn nhà, là công sức của chính mình. Ăn uống đã thế, còn việc sinh hoạt hàng ngày? Một Ông Trạng nổi tiếng bây giờ cũng tắm hồ sen, tắm ao giống như mọi người dân quê khác.
Mặc dù chỉ là những thói quen sinh hoạt hoặc cách ăn uống rất đơn giản nhưng lại mang lại cảm giác thoải mái và tâm hồn thanh thản của nhà thơ vì cuộc sống thảnh thơi, không cần phải lo lắng, e dè trước ai. Phong cách ngắt nhịp 4/3 tạo nên một tâm trạng nhẹ nhàng, thong thả và đầy yêu đời của thi nhân.
Hai câu thơ đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống bốn mùa với màu sắc tươi đẹp, nhưng đậm chất bình dị với hình ảnh hồ sen và sinh hoạt hàng ngày của con người ở am Bạch Vân. Đây cũng là biểu hiện của tình yêu đời và tinh thần lạc quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhờ cái nhìn sắc bén và tri thức sáng suốt, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn nhận rõ ràng hơn về cái “say” là để “tỉnh”, thể hiện sự tỉnh táo của mình:
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Tác giả dùng hình ảnh của giấc mơ đêm để chỉ ra rằng phú quý giống như một giấc mơ, một ảo mộng không thực tế. Hai câu thơ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc, trí tuệ đặc biệt của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông nhận ra rằng danh vọng, tài sản, quyền lợi chỉ là mơ ảo, không bao giờ thực hiện được. Động từ “nhìn xem” cho thấy sự tỉnh táo, sáng suốt của thi nhân trong việc thực hiện quyết định của mình.
Hai câu kết thúc thật sâu sắc truyền đạt ý nghĩa của triết lí sống Nhàn: biết từ bỏ những thứ xa hoa như danh lợi vì chúng chỉ là như giấc mơ mà thôi. Nguyễn Bỉnh Khiêm cảnh báo mọi người không nên bắt chước những thói quen xấu đó, và nhấn mạnh rằng chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn mới là vẻ đẹp đích thực và lưu giữ mãi sau này. Từ đó, ta thấy được vẻ đẹp đạo đức, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông từ bỏ danh lợi để trở về cuộc sống bình dị, giữ lại phẩm chất cao quý. Quan điểm coi thường danh lợi, xem đó là hão huyền.
Bài thơ “Nhàn” với chỉ 8 câu thơ Đường với kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng sâu sắc, đã mô tả cho chúng ta một lý tưởng sống hiền lành, triết lý sống đầy nhân văn: vinh hoa danh lợi chỉ là như giấc mơ không thực sự mà những kẻ hám danh luôn theo đuổi nhưng không bao giờ đạt được. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cách rời xa thế gian hư ảo đó để giữ cho tâm hồn thanh cao, trong sáng, đồng thời bảo vệ thiên nhiên, một bức tường cao xứng đáng là tấm gương cho thế hệ sau.
Phân tích Nhàn - Mẫu 6
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sinh ra tại làng Trung Am, xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại ô Hải Phòng, ông đỗ Trạng nguyên năm 1535 và trở thành quan dưới triều nhà Mạc. Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang triết lí sâu sắc, giáo huấn, ca ngợi ý chí cao cả của người hiền lành và phê phán những điều tiêu cực trong xã hội thời kỳ đó.
Nhàn là một bài thơ Nôm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Tên bài thơ được đặt bởi người sau này. Bài thơ thể hiện ý nghĩa sống thanh bình, hòa hợp với thiên nhiên và giữ vững phẩm chất cao quý, vượt lên trên danh lợi tầm thường.
Hai dòng thơ đầu tiên phản ánh sự thanh bình, thoải mái của cuộc sống theo lối của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một ngày, một cần câu, một chiếc gậy,
Thảnh thơi, ai cũng tìm thấy niềm vui.
Quan Trạng trở về sống giữa làng quê như một “lão nông làm ruộng”, mỗi ngày gắn bó với công việc đất đai như cày, gặt, câu cá... Sử dụng số từ đếm rõ ràng cho thấy sự gần gũi, quen thuộc của ông với cuộc sống này.
Câu thứ ba đưa ta quay lại với cuộc sống giản dị của xưa: Quan Trạng, dù có vẻ ngoài lộng lẫy, chức quyền, nhưng đã chấp nhận cuộc sống giản dị để tránh xa sự tham vọng và lòng tham. Một sự đấu tranh mạnh mẽ với thời đại.
Thảnh thơi, ai cũng tìm thấy niềm vui.
Những từ ngữ lững thững, phản ánh một cách tinh tế phong cách tự do và tinh thần thư thái của con người tìm kiếm sự thanh bình, rời xa bận rộn và cám dỗ vật chất; không mắc kẹt trong những mưu mô, tham vọng. Niềm vui tỏa ra từng bước chân nhẹ nhàng, từ từ. Niềm vui tràn ngập trong lời thơ, nhẹ nhàng, thanh thản đầy lạ kỳ. Cụm từ 'ai' đại diện cho mọi người, được tác giả sử dụng để thể hiện sự rộng lượng, càng suy ngẫm càng thấy sự thú vị.
Nguyễn Bỉnh Khiêm quay về quê hương là trở về với tự nhiên. Sống hòa mình với tự nhiên là thoát khỏi cuộc đua vật vã của cuộc sống hàng ngày, không bị cuốn hút bởi tiền bạc, quyền lợi, để tâm hồn được yên bình, sảng khoái:
Ta dại, ta tìm nơi yên bình
Người khôn, người đến nơi hối hả.
Nhân cách cao quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với lòng tham vọng như lửa với nước. Yên bình đối lập với hối hả, cá nhân đối lập với xã hội. Tìm kiếm nơi yên bình không phải là trốn tránh cuộc sống mà là tìm kiếm nơi mà ta thích, nơi ta có thể sống thoải mái, an nhàn, xa lánh khỏi sự bon chen, cạnh tranh. Nơi yên bình là nơi tự nhiên tươi đẹp, mang lại sự an bình cho tâm hồn. Nơi hối hả là nơi ồn ào, náo nhiệt, là nơi mà cuộc sống vẫn luôn trong trạng thái sôi động, nơi mà con người tranh đấu để đạt được quyền lợi của mình.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà hiền triết sáng suốt. Sáng suốt trong việc chọn lựa: Ta dại, ta tìm nơi yên bình, bất kể: Người khôn, người đến nơi hối hả. Sáng suốt trong cách nói đùa hóm hỉnh, ngược lại: dại vậy thực ra là khôn, còn khôn thì lại trở nên dại.
Trong một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Khôn làm ác là dại khôn,
Dại vốn là hiền lành ấy là dại khôn.
(Thơ Việt Nam cổ)
Vậy là quan điểm về sự dại và khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh tri thức, triết lý dân gian: Gặp điều tốt lành khi ta tử tế; gặp điều xấu xa khi ta xấu xa.
Cuộc sống của người vĩ nhân ở Am Bạch Vân đúng là bình dị nhưng cao quý vô ngần:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Hai câu thơ miêu tả cuộc sống giản dị tại làng quê với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhà thơ đề cập đến những hoạt động hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, dù đơn giản nhưng lại mang đến niềm vui khi mỗi mùa đều có những trải nghiệm đặc biệt, không cần phải lo lắng tìm kiếm, cuộc sống giản dị này cho phép con người tự do và không bị gò bó, ràng buộc.
Thức ăn quê mùa như măng trúc, giá là sản phẩm của lao động tự do của người dân, mang lại niềm vui và sự tự lập. Quan Trạng giờ đây cũng tham gia vào những hoạt động như tắm hồ sen, tắm ao như bao người dân quê khác.
Với trí tuệ sâu sắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hiểu biết về quy luật của tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng sự khôn ngoan của người quân tử là từ bỏ danh vọng, tìm kiếm sự thanh thản cho tâm hồn, sống hòa hợp với thiên nhiên.
Tầm nhìn sáng suốt của nhà thơ thể hiện rõ ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cảm giác 'say' để trở nên 'tỉnh' và hiểu rõ hơn về cuộc sống.
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống,
Chứng kiến phú quý tựa như giấc mơ.
Quan Trạng một lần nữa khẳng định lối sống nhàn của mình, cho thấy sự khác biệt trong nhân cách và trí tuệ. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng danh vọng, của cải, quyền lực chỉ là hư không. Sự sáng suốt làm cho lập trường của nhà thơ vững vàng, từ bỏ cuộc sống ồn ào để tìm kiếm sự trong sạch và cao quý trong thiên nhiên, nơi mà tinh thần được nuôi dưỡng và hai chữ thiện lương được giữ vững.
Tư tưởng về cuộc sống nhàn đã được phổ biến trong thơ văn thời trung đại, là biểu hiện sâu sắc của tri thức. Sống nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, là cách để nuôi dưỡng tâm hồn và kéo dài tuổi thọ. Sống nhàn mang lại niềm vui lành mạnh, là một phần của triết lý lớn.
Quan điểm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là tránh né khỏi gánh nặng của cuộc sống, mà là tìm kiếm sự thanh thản trong lòng. Ông cho rằng sống nhàn là tránh xa quyền lực, danh lợi, được sống hòa hợp với thiên nhiên và tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ nhàn thân mà còn luôn quan tâm đến việc giúp đỡ xã hội. Quan điểm sống nhàn của ông đem lại nhiều giá trị tích cực trong một thời đại đầy biến động.
Chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rõ qua bài thơ nhàn. Bức chân dung đơn giản, tự nhiên, vẻ đẹp cao quý và trí tuệ lỗi lạc của một bậc đại thần lưu danh.
Phân tích về bài thơ 'Nhàn' - Mẫu 7
Trong thời đại quan trường, mọi người đều khao khát có một vị trí cao trong triều đình, có người mong muốn nhiều và cũng có người không muốn rời bỏ quyền lực. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà quân sĩ trung thành với đất nước và một nhà nho tài ba, đã quyết định trở về quê ở ẩn. Trong thời gian này, ông đã sáng tác bài thơ 'Nhàn' để thể hiện sự thư thái sau khi rời bỏ cuộc sống quan trường, đồng thời diễn đạt quan điểm của mình về quan trường, điều này chỉ có thể hiểu hết khi đọc thơ của ông.
Tên của bài thơ độc đáo và ý nghĩa. Một từ 'nhàn' đã nói lên tất cả những gì nhà thơ muốn truyền đạt. Đó là sự thư thái của con người trong cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn diễn đạt điều gì khi sử dụng từ 'nhàn'? Điều này làm tăng sự hấp dẫn của bài thơ khi người đọc khám phá tâm tư của nhà thơ.
Hai dòng đầu tiên của bài thơ với hình ảnh quen thuộc của làng quê và ruộng đồng mô tả cuộc sống mà Nguyễn Bỉnh Khiêm coi là thư thái cho mọi người:
“Một buổi sáng, một dây câu, một cái gậy
Thư thái dưới bóng dầu ai biết được niềm vui nào”
Hình ảnh những dụng cụ quen thuộc của công việc nông nghiệp cho thấy không gian yên bình của làng quê. Mỗi nhà thơ khi rời bỏ cuộc sống quan trường thường tìm đến làng quê để tinh thần được thanh tịnh, không phải ở thành thị. Làng quê không chỉ là những hình ảnh quen thuộc như cây đa, bến nước, mái nhà, mà còn là những công cụ làm đồng. Dù là công việc mệt nhọc nhưng ở đây tinh thần không mệt mỏi. Ông có thể thư thái, tận hưởng bình yên của làng quê.
Câu thơ sau biểu hiện quan điểm về sự 'khôn' và 'dại' trong việc chọn lựa giữa quan trọng và nhàn nhã. Người nông dân quyết định về làng quê làm nông dân để giữ gìn sự trong sạch.
Trước sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều người có thể nói ông là dại. Ông chọn ở làng quê hẻo lánh thay vì tham gia vào cuộc sống quan trường ồn ào. Tác giả sử dụng cách diễn đạt đối lập để thể hiện quan điểm của mình.
Mặc dù nơi vắng vẻ có nguy hiểm, nhưng chốn quan trường mới thực sự đáng sợ. Ở đó, những âm mưu lớn luôn tiềm tàng và nguy hiểm. Nhà thơ muốn nhấn mạnh sự đối lập giữa sự 'dại' và 'khôn'.
Nơi vắng vẻ có thể không an toàn, nhưng chốn quan trường mới đáng sợ hơn. Tại đó, mọi người tranh đấu với nhau và sử dụng mọi thủ đoạn để đạt được quyền lợi cá nhân. Nhà thơ muốn người đọc tự hiểu sự khôn ngoan và dại dột trong lựa chọn sống của mình.
Cảnh sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rõ trong hai câu thơ tiếp theo, khi mô tả bốn mùa của năm và thực phẩm mà người ta ăn theo mùa:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Mùa thu, người ta ăn măng trúc; mùa đông, ăn giá đỗ; mùa xuân, tắm hồ sen; mùa hạ, tắm ao. Những hoạt động này thể hiện sự nhàn nhã và hòa mình với thiên nhiên. Cuộc sống đơn giản này được nhà thơ coi là sự nhàn nhã, sống hòa mình với tự nhiên.
Cuộc sống nhàn của nhà thơ không chỉ hòa mình với thiên nhiên mà còn kết hợp với việc uống rượu:
“Rượu, đến gốc cây, ta sẽ nhấp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao”
Hình ảnh rượu được tượng trưng qua việc nhấp ly rượu từ gốc cây. Hành động nhấp nhô lên như một biểu tượng của cuộc sống thanh đạm và thư thái, khi người ta thưởng thức hương vị nồng nàn của rượu và ngắm nhìn bầu trời mơ màng. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó chính là cuộc sống thanh đạm và phong phú như một giấc mơ.
Bài thơ mô tả một nhà nho ở quê ẩn dật với sự thích thú trong công việc nông nghiệp. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, cuộc sống đơn giản và cao quý cùng với quan điểm về 'khôn - dại' thể hiện tinh thần thanh bình và tình yêu thiên nhiên sâu sắc.
.............
Tải tài liệu để đọc thêm phân tích văn bản về chủ đề Nhàn