Tài liệu phân tích bài thơ 'Ông Đồ' của Vũ Đình Liên được giới thiệu bởi Mytour.
Nội dung chính bao gồm sơ đồ tư duy, dàn ý chi tiết và 14 mẫu văn. Hãy cùng theo dõi ngay dưới đây.
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ 'Ông Đồ'
Kế hoạch phân tích bài thơ 'Ông Đồ' của Vũ Đình Liên
I. Bắt đầu
Giới thiệu và hướng dẫn về bài thơ 'Ông Đồ'.
II. Phần chính
1. Truyện kể về ông đồ trong quá khứ
- Ông đồ xuất hiện trên đường phố với hoa đào và mực tàu giấy đỏ.
- Ông đồ viết câu đối như một nghệ sĩ thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người xem.
=> Một thời quá khứ đẹp đẽ.
2. Ông đồ hiện nay
- Mỗi năm trôi qua, mỗi lần ông đồ xuất hiện lại là một biểu hiện của sự lãng quên dần dần của con người.
- Câu hỏi nhẹ nhàng: “Người thuê viết ở đâu?” thể hiện tâm trạng buồn bã, luyến tiếc.
- Nhân hóa “giấy đỏ buồn không sắc”, “mực đọng trong nghiên sầu”: tương trưng cho nỗi buồn của nhà thơ khi bản thân không được nhớ đến.
- Hình ảnh “lá vàng rơi trên tờ giấy”, “ngoài kia mưa bụi bay”: gợi lên cảm giác cô đơn, lạnh lẽo.
3. Sự thương hại của nhà thơ trước tình hình của ông đồ
- Thời gian: “Năm nay cây đào lại nở” thể hiện sự lặp lại của mùa xuân, tuần hoàn không ngừng của thời gian.
- Hình ảnh của sự “vắng vẻ”: phủ nhận sự hiện diện của một người đã từng là điểm tựa.
- Câu hỏi cuối cùng “Những người mua năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”: giống như một than thở về số phận.
III. Kết luận
Xác nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Ông đồ”.
Phân tích bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 1
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Thơ của ông đậm chất nhân văn, đề cao tình cảm quê hương. Bài thơ Ông đồ là một minh chứng điển hình cho phong cách sáng tạo của ông.
Trong cộng đồng xưa, ông đồ là biểu tượng của người hiểu biết. Vào dịp Tết đến xuân về, hình ảnh ông đồ với bút mực tàu và giấy đỏ để viết câu đối trên phố đã trở nên quen thuộc:
“Hoa đào nở mỗi năm
Lại thấy ông đồ già
Bày bút mực giấy đỏ
Trên phố đông người qua.”
Những dòng chữ như “phượng múa rồng bay” khiến người xem không khỏi ngưỡng mộ tài năng:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
“Hoa tay” ám chỉ tài năng thiên bẩm. Tác giả dùng cụm từ “tấm tắc” kết hợp với so sánh tu từ “như phượng múa rồng bay” để khẳng định sự xuất sắc hơn người, cũng như thể hiện lòng kính trọng đối với ông đồ. Một quá khứ rực rỡ thật đáng ngưỡng mộ.
Nhưng thời gian trôi qua, cùng với sự tiến bộ của xã hội, ông đồ vẫn đây, nhưng không còn ai quan tâm:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn đậu đấy,
Dường như chẳng ai để ý,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.'
Ở đây, cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” nhấn mạnh sự lãng quên. Thời gian trôi qua, ông đồ không còn được trọng vọng như trước. Không ai thuê viết nữa. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” thể hiện tâm trạng buồn bã, nuối tiếc trước sự thay đổi này. Hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi buồn của người nghệ sĩ khi không còn được nhớ đến. Dường như, ngay cả cảnh vật cũng trở nên buồn bã.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?'
“Năm nay” chỉ hiện tại, “đào lại nở” báo hiệu Tết đến xuân về. Nhưng ông đồ đã không còn ngồi ở đó nữa. Câu hỏi tu từ giống như lời than trách số phận của ông đồ, cũng như thể hiện sự nuối tiếc về một nét đẹp truyền thống đã dần phai nhạt.
Với thể thơ ngũ ngôn sâu lắng, giọng thơ giàu cảm xúc kết hợp với việc sử dụng tu từ độc đáo, bài thơ Ông đồ đã miêu tả tình cảnh bi thương của “ông đồ”, từ đó truyền đạt niềm thương hại chân thành trước một tầng lớp đang suy tàn và nỗi nhớ nhung quá khứ của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 2
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ đặc trưng của phong trào Thơ mới. Bài thơ “Ông đồ” đậm chất sáng tạo của ông, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Hình ảnh ông đồ luôn quen thuộc trong xã hội xưa. Họ là những người có hiểu biết, có tài. Trong quá khứ, mỗi dịp Tết đến, ông đồ lại trưng mực, giấy đỏ trên phố đông người để viết câu đối:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Ông viết câu đối mà như diễn thư pháp khiến người xem phải tấm tắc khen ngợi, trân trọng. Đó là một thời vàng son, khi ông đồ được hết lòng trân trọng. Để rồi biết bao nhiêu người phải tấm tắc khen ngợi tài năng:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.'
Hoa tay ám chỉ tài năng thiên bẩm. So sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ của tác giả dành cho ông đồ. Tuy nhiên, với sự tiến triển của xã hội, thời gian trôi qua, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng không có ai để ý:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” ám chỉ sự lãng quên theo thời gian. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” thể hiện tâm trạng buồn bã, nuối tiếc trước sự thay đổi này. Hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi buồn của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Dường như cảnh vật cũng nhuốm màu buồn, thê lương.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?'
Mùa xuân trở lại, nhưng bóng dáng ông đồ vẫn không xuất hiện. Câu hỏi nảy lên như lời trách móc về số phận của ông đồ trong bối cảnh truyền thống đang dần phai nhạt. Đây là một trong những tác phẩm mà tôi rất ưa thích của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Bằng cách sử dụng thể thơ ngũ ngôn giản dị nhưng cảm xúc sâu, kết hợp với biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ đã vẽ nên hình ảnh đáng thương của “ông đồ”, đồng thời làm hiện lên niềm đau thương chân thành trước tình trạng đau khổ và nỗi nhớ nhà cũ của nhà thơ.
Đánh giá và phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 3
Nhà thơ Vũ Đình Liên đã sáng tạo bài thơ Ông đồ nhằm thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với những người gặp phải hoàn cảnh khó khăn và niềm tiếc nuối về một truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong khởi đầu của bài thơ, hình ảnh ông đồ hiện lên trong những dòng suy tư và kỷ niệm của tác giả:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Cấu trúc mỗi.. lại cho thấy ông đồ là biểu tượng không thể thiếu trong những ngày tết của người Việt. Khi hoa đào nở rộ, màu đỏ của giấy và mực tàu xen lẫn giữa phố đông, hình ảnh ông đồ hiện lên như một phần không thể tách rời của bức tranh mùa xuân. Bức thơ đầy yêu thương, dù chỉ chiếm một góc nhỏ trên phố nhưng ông đồ lại là trung tâm của sự chú ý, sự vui vẻ của ngày tết với những tài năng mà ông có:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.'
Từ cách mà ông đồ thu hút sự chú ý, ngưỡng mộ của mọi người, ta có thể thấy được ông là trung tâm của sự kính trọng và ngưỡng mộ. Niềm vui không chỉ là được nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài - bởi ông có khả năng viết chữ tuyệt vời. Ba chữ 't' trong một câu như những tràng pháo tay phấn khích để ca ngợi tài năng của ông. Ông hiện lên giữa dòng người đông đúc như một nghệ sĩ sáng tạo, trổ tài tâm huyết của mình để được mọi người ngưỡng mộ. Với sự ngưỡng mộ đó, Vũ Đình Liên thể hiện lòng tự hào về truyền thống đẹp của dân tộc là chơi câu đối. Nhưng liệu bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý sâu xa trong từng câu, từng chữ để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc với những người viết ra những câu chữ ấy?. Trong khổ thơ thứ ba, hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ vẫn nổi bật, nhưng mọi thứ đã thay đổi. Không còn nhiều người thuê viết - tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương ẩn sau hai câu thơ trên, giờ đây cảm xúc đó được thể hiện trong một câu hỏi đầy băn khoăn day dứt:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?”
Mỗi năm lại đến, nhưng từ ngày càng xa xưa, chữ viết truyền thống cũng dần mất đi sự quý trọng. Số người yêu thích và kính trọng văn chương cổ truyền cũng ngày một ít đi, những khách hàng quen cũng mỗi người một nơi. Dần dần, hy vọng nhỏ nhoi của Ông đồ, góp phần vào không khí tết yên bình, cũng phai nhạt theo thời gian, bởi cuộc sống hiện đại ngày càng khó khăn. Với câu hỏi tinh tế, Vũ Đình Liên thể hiện nỗi tiếc nuối về thời đại đã qua và để lại nỗi buồn, nỗi u sầu thấm vào cả những vật vô tri vô giác:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Giấy đỏ là loại giấy mỏng mà ông đồ thường viết lên, nó dễ phai màu chỉ cần một chút ẩm ướt. Tình trạng “Giấy đỏ buồn không thắm” - không thắm vì đã lâu không sử dụng nên phai màu. Mực cũng tương tự - đây là loại mực đen sâu mà ông đồ sử dụng, trước khi sử dụng cần mài mực và viết bằng bút lông. Nhưng bây giờ “Mực đọng trong nghiên sầu” có nghĩa là mực đã ngưng sử dụng từ lâu, chờ đợi trong sự thất vọng. Các từ buồn, sầu như làm sống lại giấy đỏ, mực tàu, khiến chúng có hồn, có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn không chỉ đọng trong những vật dụng hàng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan tỏa ra cảnh vật, khiến không gian trở nên buồn bã, đầy xót xa:
“Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Mặc dù nghề viết chữ không còn được trân trọng như trước, nhưng ông vẫn kiên trì ngồi bên lề đường, mong chờ sự cứu giúp từ người đi qua. Nhưng không có ai chú ý đến ông, không ai chia sẻ và đồng cảm với ông. Thông qua phong cách mô tả tự nhiên, nhà thơ Vũ Đình Liên cho thấy cảnh tượng thiên nhiên thật đầy xót xa, u buồn trước tâm trạng của ông đồ:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Nhưng thực sự đáng suy ngẫm, tại sao mùa xuân lại chứng kiến lá vàng rơi? Có phải hình ảnh lá vàng rụng gợi lên sự tàn lụi, phai mờ của một thời kỳ, của một phong tục đẹp của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối đỏ ngày tết đã trở thành dĩ vãng. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, đã cố níu kéo cuộc sống của mình nhưng so với thời đại mới, chỉ còn là chiếc lá úa tàn rơi xuống. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái đã khiến cơn mưa xuân, dù có sức sống bền bỉ, cũng trở nên u uất, xót xa. Giời - đó chính là cách người dân gọi những điều tưởng như đã xa xôi, nhưng vẫn còn hiện hữu. Câu thơ gợi lên nỗi buồn thương của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dù chỉ là mưa bụi, nhưng nó đủ sức xóa sạch dấu vết của một thời và một lớp người. Dù không còn được người đời trân trọng như trước, nhưng với nhà thơ, hình ảnh này vẫn mãi khắc sâu trong trái tim:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa.'
Bài thơ bắt đầu và kết thúc đều nhẹ nhàng. Năm nay khi hoa đào nở, không còn ông đồ ngồi bên lề đường như trước, hòa mình vào sự náo nhiệt của phố phường. Trong khi mọi người háo hức chờ đợi tết, ông đồ trở thành hình bóng của quá khứ phai nhạt. Ông đang bị lãng quên, chỉ còn lại như một di tích tiêu biểu của một thời đại qua cách thi sĩ Vũ Đình Liên nhìn nhận. Cuộc sống trôi đi, và cả cuộc sống bình yên và đẹp đẽ cũng trôi đi, giờ chỉ còn lại nỗi trống trải, hoài niệm. Nhà thơ đặt ra câu hỏi đầy cảm xúc:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Hai câu thơ cuối tác giả đã thể hiện cảm xúc sâu lắng, kết thúc mang lại chiều sâu tổng quát. Từ hình ảnh của ông đồ, nhà thơ suy ngẫm về số phận của những người muôn năm cũ và hỏi một cách xót xa: Hỏi mây, hỏi trời, hỏi cuộc sống, hỏi một thời đại, để cảm thông cho số phận của những người đã bị thời gian lãng quên. Câu hỏi này tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì thuộc về một thời hoàng kim giờ chỉ còn lại một màu sắc nhạt nhòa, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện hình ảnh của ông đồ, cái di tích đáng thương của một thời đại đã qua, khiến chúng ta càng cảm thương, xót xa cho số phận của ông.
Chỉ với bài thơ Ông đồ, tác giả đã thức tỉnh trong lòng người một niềm thương không nguôi. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được lòng nhân ái sâu sắc, sự cảm thông của Vũ Đình Liên, người luôn gìn giữ lòng trung hiếu và tình thương cho mọi người.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 4
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào thơ mới. Mặc dù số lượng tác phẩm của ông không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm đều mang giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ Ông đồ được đánh giá cao nhất.
Bài thơ được viết ra trong thời kỳ mà nho học bị thiếu sót, tinh hoa nho giáo từng tồn tại giờ chỉ còn là dấu vết. Ông đồ và chữ nho trở thành biểu tượng của sự mất mát khi người ta không còn trân trọng văn hóa cổ truyền, thay vào đó là sự phổ biến của bút chì thay vì bút lông.
Hai khổ thơ đầu, Vũ Đình Liên đã gợi lại thời kỳ hoàng kim của ông đồ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.'
Khổ thơ đầu đã tái hiện thời gian và địa điểm của ông đồ khiến cho bức tranh về ông đồ thời kỳ huy hoàng trở nên sống động hơn bao giờ hết. Từ hình ảnh của ông đồ, tác giả thể hiện sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với giá trị truyền thống của dân tộc.
Hai khổ thơ tiếp theo vẽ nên hình ảnh của ông đồ trong thời đại hiện đại, một hình ảnh mà ông đồ trở thành một kẻ lạc lõng giữa dòng đời, nơi mà chữ nho trở thành một dấu vết của quá khứ.
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.”
“năm nay đào lại nở” mô tả mùa xuân vẫn đẹp nhưng con người đã thay đổi, câu hỏi “Người thuê viết nay đâu” thể hiện sự buồn bã của tác giả trước sự phụ bạc của con người đối với văn hóa truyền thống. Tác giả vẽ lên cảnh lụi tàn của văn hóa chữ nho trong hình ảnh giấy đỏ và mực đọng với nỗi buồn sầu.
Hình ảnh ông đồ thời nay cũng đã thay đổi, ông đồ giờ chỉ là một kẻ lạc lõng trong sự lãng quên của mọi người. Tác giả tả lại nỗi đau của ông đồ khi phải bán chữ để kiếm sống, và cảnh lá vàng rơi trên giấy kèm với mưa bụi bay tạo nên bức tranh buồn thảm của thời đại.
Khổ thơ cuối thể hiện lòng thương xót của tác giả đối với ông đồ và văn hóa truyền thống bị mai một của dân tộc.
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?'
Bài thơ bắt đầu và kết thúc với cấu trúc tương tự, nhấn mạnh sự liên kết giữa thời gian và nét đẹp truyền thống. Hoa đào vẫn nở, nhưng ông đồ xưa đã biến mất, tác giả thể hiện sự tiếc nuối về sự mất mát của văn hóa dân tộc.
Bài thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, bình dị nhưng sâu lắng, thể hiện nỗi niềm xót thương và tiếc nuối về nét đẹp truyền thống của dân tộc.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 5
Tác giả gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc và những giá trị văn hóa của quê hương, để mọi người suy nghĩ về trách nhiệm của mình.
Bài thơ được sáng tác khi ông đồ trở thành biểu tượng của một thời kỳ đã qua. Nho học bị lãng quên, mọi người đua nhau theo đuổi thời đại với chữ Pháp và chữ Tây.
Hai đoạn đầu của bài thơ tạo ra bức tranh về những ngày hào hoa của ông đồ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.'
Khi đó, chữ Nho được tôn trọng. Những nét chữ Nho đẹp, đều đặn, tươi sáng, mang trong đó những giá trị văn hóa sâu sắc, và ông Đồ được ca tụng vì tài năng của mình. Sự tôn kính từ khắp nơi là điều quý giá nhất với một nghệ sĩ. Tuy nhiên, thời gian luôn thay đổi, không có gì là vĩnh viễn. Trên dòng chảy của thời gian đó, những giá trị có thể dễ dàng bị lụi tàn. Trong quá trình đó, ông đồ cũng không tránh khỏi số phận:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai biết
Lá vàng rơi trên tờ giấy
Ngoài trời mưa bụi phủ.”
Ông đồ đối diện với tình trạng của một nghệ sĩ bị lãng quên, như một cô gái mất đi vẻ đẹp. Duyên phận dẫn dắt, khi kết thúc, chỉ có mình ông ở lại. Ông đồ đứng giữa cuộc sống đầy vội vã của thời đại mới chỉ giống như một hòn đảo cô đơn, lạnh lẽo. Thực tế bên ngoài là như vậy và chỉ như vậy, nó là sự cô đơn. Nhưng trong thơ, bên cạnh hiện thực ấy còn là tâm trạng của tác giả, khiến giấy đỏ trở nên nhạt nhòa và mực chứa đầy sầu bi. Sự nhân hóa được sử dụng một cách đắt giá đã làm cho những vật liệu vô tri như mang trong mình một linh hồn, như càng tăng thêm sự u ám trong tâm trí người đọc. Đặc biệt là hình ảnh mưa phùn gió bấc kết hợp vào nỗi buồn thảm này. Đây có thể là mưa của thiên nhiên, hay cảm giác lạnh buốt trong tâm trí con người. Không rõ, chỉ biết rằng có một di tích tiều tụy đáng thương ngồi đó, trong sự đứng yên, giữa cơn mưa bụi bay. Mùa xuân mang lá vàng, đó là một sự trái ngược, nhưng nó là một phản ánh của sự đối lập, nhưng cũng là cách giải thích cho sự có giá trị của tình cảm. Bởi vì bây giờ, ông đồ chỉ là một di tích tiều tụy đáng thương của một thời kỳ đã qua, và vì vậy mà
“Cảnh nào cảnh cũng mang nỗi buồn
Người buồn cảnh có niềm vui nào đâu?”
Câu nói cổ xưa 'thi trung hữu họa' thực sự phản ánh trong bài thơ này. Sử dụng ngôn từ ít ỏi nhưng cảnh vật hiện ra như tranh vẽ, không chỉ có hình ảnh của ông đồ mà còn là cái tinh thần của xã hội qua góc nhìn của ông đồ. Tác giả đã trình bày những chi tiết quý giá: nơi ông đồ đang ngồi là bàn viết, nơi trời đất biến thành cơn mưa gió, nơi xã hội trở nên lạnh lùng và không quan tâm. Thể thơ ngũ ngôn có sức mạnh biểu đạt những điều sâu xa, hoài niệm, thể hiện một cảm xúc buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Màn mưa bụi kết thúc đoạn thơ một cách u ám, lạnh lẽo, buồn bã và trống rỗng. Kết quả là một cảm giác nặng nề, để rồi sau đó, ta cũng phải suy tư về bản thân trong câu hỏi đau lòng và sâu sắc của nghệ sĩ:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông lão bị đày ra khỏi vòng xoay xã hội, trở về một mình với trang viết im lặng trên tờ giấy. Ông đã cố gắng bám vào xã hội hiện đại, mọi người đã chứng kiến nỗ lực của ông, đã thấy ông vùng vẫy, nhưng chúng ta đã không làm gì, và bây giờ, khi nhìn lại, mới biết ông đã bị bỏ rơi từ lâu. Hình ảnh của ông không chỉ là hình ảnh của một cá nhân, một nghề nghiệp, mà là biểu tượng của một thời đại, của những kí ức sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta. Bây giờ chúng ta mới cảm thấy tiếc nuối, nhưng đã quá muộn rồi. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, hỏi cả một xã hội, thế hệ của chúng ta đã đối xử ra sao với một nét đẹp văn hóa của dân tộc, đã xoá sổ nó đi, có lẽ cả bản thân chúng ta cũng bị mất trong dòng tiền lưng bự của xã hội. Ngày hôm nay, khi quay đầu lại, chúng ta bất giác nhớ đến 'ngày xưa'. Hỏi hay cầu nguyện, hay nuối tiếc và hối hận. Đó không chỉ là câu hỏi, mà còn là lời than thở, là tiếng khóc nghẹn của nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng của văn hóa dân tộc. Hai câu thơ cuối cùng của bài thơ, chúng ta cảm nhận được số phận của ông lão và đặc biệt là tình cảm của một lớp người đối với những giá trị văn hóa dân tộc. Ngữ pháp của câu thơ này có vẻ lạ, nhưng không ai cảm thấy khó hiểu: Những người từ xưa. 'Từ xưa' thực sự chỉ là vài năm trước, nhưng gọi là 'từ xưa' mới đúng, thời của ông lão đã qua đi, đã hòa mình vào những bút mực, những nghiên cứu xa xôi trong lịch sử. Từ 'từ xưa' trong câu trên làm cho chúng ta cảm thấy nhớ nhung.
Bằng một cảm xúc riêng biệt, một tình yêu sâu sắc với văn hóa đất nước. Vũ Đình Liên đã thức tỉnh trong tâm trí của độc giả một phần văn hóa đẹp đẽ của một thời kỳ đã qua. Khi nhìn lại bản thân, chúng ta phải tự hỏi, chúng ta đã làm gì trong cuộc sống của mình, chúng ta đã đối xử ra sao với sự nghiệp, sự nỗ lực. Chúng ta đã vô tâm, không quan tâm. Chúng ta đã không đặt tâm hồn vào việc bảo tồn bản sắc dân tộc, nhưng đây mới là những giá trị vĩnh cửu cho mỗi con người.
Phân tích bài thơ 'Ông Đồ' - Mẫu số 6.
Trong những ngày Tết ấm áp, khi mùa xuân về đầy hân hoan trên mọi con phố, những người yêu thơ lại trầm tư với những dòng thơ giản dị, đậm chất nhân văn của nhà thơ Vũ Đình Liên - bài thơ 'Ông Đồ'.
Hai đoạn đầu của bài thơ, tác giả đã mô tả những ngày hoàng kim của ông Đồ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Những lời khen tỏ ra rộng lượng, nhưng nếu suy ngẫm kỹ, đó chỉ là những lời khen từ những người ngoài giới viết văn. Việc viết câu đối thuê, thực tế, đã là bi kịch, là bước lùi của người theo nghiệp văn chương. Nếu đã đỗ các kỳ thi quan trọng như tiến sĩ, quan thám, thì có thể coi là thành công, được tôn vinh, nhưng nếu không, chỉ là một người bình thường, công việc chưa thành, danh tiếng chưa được xây dựng, thì phải quay về quê làm giáo viên, kinh doanh, hoặc thậm chí xem vận mệnh của mình ở thành thị như Tản Đà đã làm. Vào dịp Tết, việc mài mực bên lề đường cũng có thể được coi là bất đắc dĩ của người trí thức. Việc bán chữ, đối với những người sĩ tử, luôn luôn là điều khó chịu. Người dân yêu quý và ngưỡng mộ tài năng văn chương mà họ không biết, hoặc chỉ coi thường, vì họ không biết giá trị thực sự của nó.
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Ông đồ gặp phải tình trạng của một nghệ sĩ không được công chúng biết đến, một cô gái mất đi vẻ đẹp. Nếu may mắn có người đến, nhưng cũng sớm mất đi. Ông đồ tiếp tục ngồi đấy mà không ai biết. Đời thực không như vậy và chỉ có thế, đó là sự cô đơn. Nhưng trong thơ, cùng với thực tế đó là nỗi lòng của tác giả, khiến giấy đỏ trở nên nhạt nhòa và mực trở thành biểu hiện của nỗi buồn, Sự đồng tình với nỗi buồn này là cảnh mưa phùn và gió bấc. Hiện thực trong thơ là hiện thực của cảm xúc, một tâm trạng như thế nào thì cảnh vật trong thơ sẽ hiện lên như thế. Bằng cách mô tả mưa bụi và lá vàng rơi trên mặt giấy, tác giả đã tạo ra một bức tranh sống động, không chỉ miêu tả hình ảnh của ông đồ mà còn phản ánh sự thờ ơ của xã hội. Với chỉ tám câu thơ, bốn mươi chữ, tác giả đã thể hiện rất rõ sự suy tàn của một thời kỳ. So sánh chi tiết ở đoạn này với đoạn trên thực sự làm cho bức tranh trở nên sống động hơn, và tạo ra cảm giác đau lòng và tiếc nuối.
Có một thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kết:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Quay trở lại câu thơ đầu của bài Mỗi năm hoa đào nở để thấy rằng quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn ngồi đó, nhưng năm nay ông không thể kiên nhẫn được nữa: Không thấy ông đồ xưa. Ông đã cố gắng bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố gắng của ông, đã thấy ông chạy theo, nhưng chúng ta không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị bỏ rơi từ bao giờ. Bóng dáng của ông không chỉ là bóng dáng của một người, của một nghề, mà là hình ảnh của một thời đại, là ký ức của tâm hồn chúng ta. Chúng ta mới cảm thấy tiếc nuối, nhưng đã quá muộn. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình? Hỏi hay kính cẩn tưởng niệm, hay ân hận sám hối. Hai câu thơ ý nghĩa nhất của bài, chúng ta đọc thấy số phận của ông đồ và cảm nhận được tình yêu, tình cảm của một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngôn ngữ. Câu thơ không gây đau đớn, chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc không dứt.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 7
Vũ Đình Liên đã sáng tác bài thơ Ông đồ. Qua bài thơ, tác giả đã truyền đạt tư tưởng, tình cảm của mình.
Khi nhắc đến ông đồ, người ta nghĩ đến những người thầy dạy chữ Nho ngày xưa. Mỗi khi Tết đến xuân về, ông thường xuất hiện trên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc với mỗi dịp Tết, khi ông đồ già xuất hiện với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đại phồn thịnh, thời hoàng kim của ông. Mỗi khi chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi hoa đào khoe sắc, ông đồ cũng lại xuất hiện. Không gian làm việc của ông là đường phố. Hãy tưởng tượng dưới bóng hoa đào, một ông già đang vẽ những nét chữ tinh tế và sự tấp nập của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã cùng nhau làm nên vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của mực, màu đỏ của giấy đã tạo nên một bức tranh sinh động.
Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ca ngợi, ngưỡng mộ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.'
Nhiều người thuê ông viết chữ không chỉ trân trọng những nét chữ của ông mà còn kính trọng ông. Ông đã thể hiện tài năng qua những câu đối đỏ, những nét chữ phượng múa rồng bay. Để viết như vậy, ông đồ cần phải am hiểu về Hán học, chữ Nho. So sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ của Vũ Đình Liên và dân tộc đối với ông đồ. Điều này cũng là sự trân trọng giá trị văn hóa truyền thống.
Khi thời thế thay đổi, ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều nhưng bây giờ họ đâu rồi? Họ vẫn ở đó nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm giảm giá trị văn hóa truyền thống. Khung cảnh quênh quàng, vắng lặng đã được tác giả miêu tả. Thời gian cuốn trôi đi những kỷ niệm, khiến con người xót xa. Câu hỏi “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với nỗi đau. Thú chơi chữ không còn được ưa chuộng, nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, giấy đỏ buồn và mực đọng trong nghiên. Biện pháp nhân hóa thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ.
Nền Hán học suy tàn nhưng ông đồ vẫn kiên trì ngồi bên hè phố để gìn giữ giá trị văn hóa:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Sự xuất hiện của ông không còn được chú ý như trước. Bóng dáng ông lặng lẽ qua đường, bên phố mà không ai để ý. Hình ảnh ông đồ rơi vào quên lãng, là “di tích tiều tụy của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Mọi người đã gạt ông ra khỏi trí nhớ, coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
Vũ Đình Liên thể hiện nỗi xót xa, hoài cổ qua khổ thơ cuối:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn nhưng không còn ông đồ. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta tiếc nuối cho một giá trị tinh thần đã mất. Câu hỏi cuối bài đọng lại bao sự cảm thương, hối tiếc cho những gì đã mất.
Bằng cách sử dụng hình ảnh hoa đào ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã thành công vẽ nên bức tranh trái ngược của ông đồ trong thời kỳ thịnh vượng và ông đồ khi trải qua những thất bại. Thể thơ năm chữ đã giúp tác giả diễn đạt cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là biểu tượng của quá khứ, là sự bộc lộ niềm thương xót sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.
.........Vui lòng tham khảo chi tiết trong tài liệu tải xuống dưới đây.........