1. Bài Mẫu Số 1
2. Bài Mẫu Số 2
3. Bài Mẫu Số 3
Đề Bài: Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan
3 Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan
I. Bản Tóm Tắt Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang:
1. Giới Thiệu
- Mở đầu và giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan cùng bài thơ “Qua Đèo Ngang”.
- Tổng Quan về Giá Trị Nội Dung và Nghệ Thuật của Tác Phẩm.
2. Phần Chính
a, Tổng Quan:
- Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848):
+ Là Một Nữ Sĩ Thời Trung Đại.
+ Bà Đã Được Mời Vào Kinh, Giữ Chức Cung Trung Giáo Tập Để Dạy Học Cho Các Công Chúa Và Cung Phi.
+ Tác Phẩm Của Bà Không Nhiều, Chủ Yếu Viết Bằng Chữ Nôm.
- Bài Thơ “Qua Đèo Ngang”: Được Sáng Tác Khi Nữ Sĩ Theo Chồng Vào Phú Xuân (Huế) Để Nhậm Chức.
b, Phân Tích:
* Đoạn Mở Đầu: Tái Hiện Khung Cảnh Thời Gian Và Không Gian Nơi Đèo Ngang:
“Bước Tới Đèo Ngang Bóng Xế Tà
Cỏ Cây Chen Lá, Đá Chen Hoa”
- Thời Gian: “Bóng Xế Tà”:
+ Kết Thúc Một Ngày.
+ Con Người Trở Về Bên Gia Đình.
-> Đặc Biệt Nhấn Mạnh Nỗi Cô Đơn, Quạnh Hiu Của Tác Giả.
- Bối Cảnh Thiên Nhiên:
+ Những Đối Tượng: Cỏ Cây, Lá, Đá, Hoa.
+ Sử Dụng Từ Ngữ “Chen”.
-> Tạo Hình Khung Cảnh Thiên Nhiên Hoang Sơ Nhưng Đầy Năng Lượng.
* Cảnh Thực Tế: Tái Hiện Cuộc Sống Con Người Ở Đèo Ngang:
“Người Dân Dưới Núi Tiều Cười Một Vài Chú
Lưng Lạc Bên Sông Chợ Những Ngôi Nhà”
- Sử Dụng Cụm Từ Như “Lom Khom”, “Lác Đác” -> Khuấy Động Hình Ảnh Vắng Vẻ, Thưa Thớt.
- Nghệ Thuật Đảo Ngữ:
+ Lom Khom - Tiều Một Vài Chú.
+ Lác Đác - Chợ Mấy Nhà
-> Tôn Chất Sự Nhỏ Bé Của Con Người Trước Bản Dạng Thiên Nhiên Rộng Lớn. Từ Đó Làm Nổi Bật Hơn Nỗi Cô Đơn, Quạnh Hiu Của Con Người Trong Không Gian Hoang Vu.
* Phân Tích Tâm Trạng: Con Người Trước Đèo Ngang:
“Nhớ Nước Đau Lòng Con Quốc Quốc
Thương Nhà Mỏi Miệng Của Gia Gia”
- Sử Dụng Động Từ Thể Hiện Trạng Thái “Nhớ”, “Thương”.
- Biểu Tượng Hình Ảnh Của Chim Đỗ Quyên, Chim Đa Đa:
+ Sử Dụng Tiếng Kêu Của Hai Loài Chim: Quốc Quốc, Gia Gia.
+ Thủ Pháp Sử Dụng Động Và Tĩnh.
-> Thể Hiện Sự Nhớ Thương Với Quê Hương, Tình Yêu Với Đất Nước Của Nữ Sĩ.
* Kết Câu Mang Đậm Nỗi Cô Đơn Của Con Người Trước Thiên Nhiên:
“Ngừng Bước, Đứng Lại, Trời, Núi, Sông
Mảnh Tình Riêng, Ta Với Ta”
- Hành Động: “Ngừng Bước, Đứng Lại”.
- Không Gian Rợn Ngợp: “Trời, Núi, Sông”
- Nỗi Lòng của Thi Sĩ: “Mảnh Tình Riêng, Ta Với Ta”.
-> Khẳng Định Nỗi Cô Đơn, Trống Trải Của Tác Giả Trước Không Gian Thiên Nhiên Bao La, Rộng Lớn.
3. Kết Bài
- Tôn Vinh Giá Trị của Tác Phẩm.
- Mở Rộng Liên Kết.
II. Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan:
1. Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan, Mẫu Số 1:
Trong thế giới văn hóa đương đại, nếu chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương, thì nhất định sẽ cảm nhận được sự điều tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn trong những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan. 'Qua đèo Ngang' là minh chứng rõ nét cho phong cách tinh tế ấy.
Bài thơ 'Qua đèo Ngang' chịu ảnh hưởng của bối cảnh khi tác giả, sau khi nhậm chức ở Phú Xuân (Huế), vượt qua đèo này. Cảm xúc chủ yếu của bài thơ là nỗi buồn man mác, nỗi nhớ quê hương và tình thương dành cho phụ nữ trên đường xa.
Bài thơ tuân theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Mặc dù chỉ có 8 câu thơ, nhưng tác phẩm đã thành công trong việc truyền đạt tâm hồn, cảm xúc của cảnh vật và con người đối diện với khung cảnh trời núi hiu quạnh như thế này.
Hai câu đề mở ra trước mắt độc giả bức tranh hoang sơ của đèo Ngang:
Bước chân vượt qua đèo Ngang, bóng tối dần buông xuống
Cỏ cây kề bên lá, lá xen lẫn cùng hoa
Không gian và thời gian tại đèo Ngang hiện hữu trong 'bóng tối dần buông xuống'. Nó không chỉ là khung cảnh mà còn chứa đựng cảm xúc nặng nề, hòa quyện cùng nỗi buồn và nỗi sầu. Ca dao, dân ca thường mô tả buổi chiều như khoảnh khắc biểu lộ nỗi buồn không biết nói cùng ai. Mặt trời dần chìm xuống núi, bóng tối bao phủ. Cảm giác cô đơn, lạc lõng tràn ngập. Cảnh thiên nhiên tại đây trở nên quạnh hiu, chỉ có cỏ cây và hoa, hòa quyện như tình yêu đan xen trong nỗi buồn. Từ 'chen' như một điểm nhấn tăng cường sự hiu quạnh của địa điểm này.
Lom khom dưới chân núi, tiều tiện vài chú
Lác đác ven sông, chợ nhỏ mấy nhà
Hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở 'tiều tiện vài chú'. Chúng như là những hạt bụi tiều tiện bé nhỏ, tận dụng cuộc sống dưới chân núi. Tuy nhiên, sự sống này mong manh và hữu vô. Bằng cách đảo ngược cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan nhấn mạnh sự hoang sơ và hiu quạnh tại đèo Ngang. Sử dụng từ láy 'lom khom' và 'lác đác' không chỉ mô tả công việc gian khổ của những người đàn ông nhỏ bé này mà còn thể hiện sự cô đơn, lạc lõng. Những hình ảnh này trong thơ làm nổi bật sự độc đáo và mong manh trong cuộc sống.
Danh sách những bài Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan xuất sắc nhất
Chuyển sang hai câu thực, cảm xúc và tâm sự của tác giả nổi dậy bất ngờ
Nhớ quê như một nỗi đau sâu cuốc cuốc
Thương nhớ nhà, mỏi miệng cái da da
Âm thanh cuốc cuốc và da da tạo nên bức tranh êm đềm, nhưng sâu thẳm và đầy cảm xúc. Người du khách nghe thấy tiếng cuốc và da da vang lên, lòng như đau nhói, buồn thấu đáo. Sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh, tác giả hình dung cảnh tượng yên bình, nhưng lại kèm theo âm thanh nao lòng. Tiếng cuốc, tiếng da da khiến tác giả nhớ về quê nhà, thương nhớ những khoảnh khắc gia đình, càng làm nổi bật nỗi đau khi phải xa quê, đơn độc giữa đường xa.
Hai câu thơ kết thúc khiến cảm xúc và nỗi niềm của tác giả đạt đến đỉnh điểm
Dừng bước lại, trời non nước
Mảnh tình riêng biệt ta với ta
Chỉ với bốn từ 'dừng bước lại', nỗi đau và sự lạc lõng của tác giả trở nên da diết và buồn thâm thúy. Dù trời non nước bao la, con người vẫn nhỏ bé, tác giả cảm thấy lạc lõng giữa vô vàn. Mảnh tình nhỏ bé, chỉ thuộc về 'ta với ta'. Nỗi buồn dường như đạt đến cực điểm, làm thấm đẫm tâm can và nghiêng ngả trên trời đất.
Bài thơ 'Qua đèo Ngang' với giọng điệu da diết, trầm bổng và những kỹ thuật nghệ thuật độc đáo đã để lại trong lòng độc giả những cảm xúc khó phai. Câu chuyện của bài thơ dường như vẫn còn vang vọng mãi mãi.
Câu thơ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước Việt Nam. Thiên nhiên ở quê hương chúng ta tươi đẹp, phong cảnh hòa quyện, tràn đầy sức sống. Đó là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca. Thiên nhiên có thể lấp lánh như trong giấc mơ, cũng có thể rực rỡ, hùng vĩ như ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh đẹp cũng có thể buồn bã, u tối dưới bàn tay của những nhà thơ, chứa đựng tâm sự u hoài khi sáng tác. Nguyễn Du đã từng nói: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Câu thơ này khiến ta liên tưởng đến bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan.
Bước chân tới đèo Ngang, bóng xế tà.
Cỏ cây xen kẽ đá, lá rải hoa Lom khom dưới chân núi, tiều vài chú Lác đác ven sông, chợ mấy căn nhà Nhớ quê nước đau lòng từng gia đình
Thương nhà, mệt mỏi, lời kể của ông bà
Dừng bước, đứng lại, trời cao, nước biển rộng
Một tình yêu riêng, ta và đất đai.
Để thấu hiểu và trân trọng bài thơ, ta cần đánh giá cao cả tài năng và tư tưởng của bà Huyện Thanh Quan, người luôn dành trái tim cho quê hương, đất nước, và gia đình. Có ai dám khẳng định rằng phụ nữ trong xã hội truyền thống không trải qua những cảm xúc thiêng liêng như vậy?
Chỉ cần đọc hai dòng đầu của bài thơ:
Bước chân chinh phục đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây xen kẽ đá, lá xen lẫn hoa
Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang, đây là một tuyển tập văn mẫu độc đáo
cảm nhận ngay nỗi u sầu xa cách.
Câu thơ sử dụng từ ngữ bóng xế tà và điệp từ chen, cùng với cách gieo vần lưng lá, đá, tạo nên bức tranh cô đơn, yên bình. Tà như mô tả một khái niệm chuẩn bị biến mất, làm câu thơ trở nên buồn thảm. Có câu ca dao nói rằng:
Nghe tiếng vịt kêu chiều vắng
Luyến tiếc mẹ ơi, chín chiều lòng buồn
Nhận ra rằng, tình cảm quý báu của chúng ta thường gặp nhau ở một thời điểm duy nhất, đó chính là thời gian. Trong bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả chợt lộ diện cảm xúc man mác khi bà Huyện Thanh Quan gặp ánh hoàng hôn tô điểm cảnh đẹp tại Hoành Sơn. Cảnh vật trở nên buồn bã và trống trải hơn với sự xuất hiện của điệp từ chen ở câu thứ hai. Điều này khiến độc giả cảm nhận được hình ảnh hoang vắng của đèo Ngang khi bóng tà buông xuống, mặc dù nơi này rất tuyệt vời với cỏ cây, đá, lá và hoa. Vì vậy, thi sĩ đã nhìn xa phía chân đèo để tìm kiếm sự sống động, và ở phía xa xa dưới chân đèo, hình ảnh hiện ra:
Dưới chân núi, một vài người tiều phu nô đùa
Bên sông, chợ nhỏ mấy nhà
Câu thơ mô tả bức tranh ánh hoàng hôn lạnh lẽo, những người tiều phu đang mài dao, và những gian hàng nhỏ xiêu xiêu dưới làn gió. Sự đảo ngữ trong từ ngữ 'lom khom', 'lác đác' như làm nổi bật tâm trạng u hoài. Tác giả tìm kiếm sự sống, nhưng điều đó lại làm cho cảnh vật trở nên héo hắt, buồn bã, và vắng vẻ hơn. Sự đối lập giữa hai câu thơ làm cho cảnh sắc trở nên thưa thớt, rời rạc. Từ 'vài' và 'mấy' nhấn mạnh sự vắng vẻ tại đây. Trong cảnh vắng đó, bỗng dưng, tiếng kêu đều đều vang lên, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn buông xuống.
Từ ghép đau lòng, mỏi miệng tạo cảm giác tha thiết và ray rứt. 'Nhớ nước', 'thương nhà' là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia, liệu tác giả muốn truyền đạt tâm sự từ đáy lòng hay không? Có lẽ từ ghép quốc quốc gia gia là cách nghệ thuật để nói về Tổ quốc và gia đình của bà Huyện Thanh Quan trong tác phẩm này?
Sự song song giữa ý và lời trong hai câu thơ của bài này nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc và gia đình một cách tinh tế. Từ thực tế xã hội đương đại và cảnh thực của đèo Ngang đều làm tác giả nhớ đến chính mình và chia sẻ tâm tư:
Đứng lại, nhìn xung quanh, trời cao bao la
Mảnh tình riêng, ta và bản thân.
Câu chốt của bài thơ, ta cảm nhận nỗi u hoài về quá khứ của nhà thơ. Bước dừng và nhìn, chỉ thấy trời, non, và nước. Khám phá vũ trụ rộng lớn, bao quanh là bầu trời với núi, sông, khiến con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, trống vắng. Tại đây, chỉ có bà với chính bản thân, kèm theo một tình cảm riêng biệt dành cho đất nước, cho máu mình, làm cho lòng nhà thơ như lạnh lẽo. Vũ trụ bao la quá! Sự cô đơn của con người! Tất cả được diễn đạt tinh tế dưới bút phê của nữ sĩ tài năng. Từ 'ta với ta' là minh chứng cho nghệ thuật tinh tế trong sáng tạo thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Vì cũng là 'ta với ta' nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:
Bác đến chơi, ta với ta
Là sự hòa quyện của hai người: mặc dù là hai nhưng lại là một, dù là một nhưng lại là hai. Ngược lại, bà Huyện lại thể hiện:
Mảnh tình riêng, chỉ mình ta.
Tô điểm thêm vẻ đơn sắc, lẻ loi của bản thân. Qua câu thơ, ta như hiểu rõ hơn nỗi lòng tâm sự của tác giả trước vẻ đẹp hiên ngang của quê hương...
Phân tích xong bài thơ, hiểu sâu hơn, thấu hiểu tình cảm của nhà thơ nữ thời xưa, giúp ta thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Tư tưởng vững vàng, suy nghĩ tích cực, góp phần xây dựng quê hương Việt Nam phong phú, bảo tồn dấu tích của người xưa như một di sản lâu dài, nhắc nhở và truyền đạt cho thế hệ sau.
Từ xưa đến nay, nhiều nhà thơ mô tả cảnh đèo Ngang, nhưng không ai có thành công như bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm của bà chứa đựng tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một bút tuyệt vời. Bài thơ đều vần chữ 'a', như tâm sự hoài cổ của tác giả. Không có dấu hiệu nào của ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả đều yên bình, sâu lắng như chính tâm sự của tác giả.
Thơ vang lên, như âm nhạc hồn hậu, làm rung động tâm hồn như chính những cảm xúc sâu thẳm của bà Huyện Thanh Quan khi bước chân lên đèo Ngang, dưới bức tranh hoàng hôn núi rừng. Ta lại trải qua những cảm xúc đó khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà, như trong câu thơ:
Bầu trời chiều rực rỡ bóng hoàng hôn
Âm thanh ốc xa vang, trống rộn.
Để bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ đã mang lại những trải nghiệm tuyệt vời, tình cảm sâu sắc từ đáy lòng, từ những động lòng chân thực. Người ta đã ghi tên bà, Huyện Thanh Quan, vào lịch sử như một nguồn cảm hứng bất tận, một biểu tượng với non sông, đất nước đã qua thời gian.
3. Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang, mẫu số 3:
Xã hội ngày xưa chật vật, áp đặt, gò ép phụ nữ, họ chỉ biết sống dưới bóng của nam giới, không tự chủ. Ngược lại, thời hiện đại, phụ nữ được tôn trọng, đồng đẳng, không bị phân biệt đối xử. Tình yêu và tự do không phải chỉ là đặc quyền của nam giới. Bà Huyện Thanh Quan, mặc dù không tham gia chiến trận, nhưng đã đóng góp tinh thần, sức mạnh của mình vào những bài thơ, làm giàu thêm phần cho đất nước.
'Qua đèo ngang' mang lại sự êm đềm, nhẹ nhàng, đầy bản lĩnh của bà Huyện Thanh Quan, là biểu tượng cho phong cách thơ của bà. Bài thơ được viết khi bà đang ở Phú Xuân (Huế), đi qua đèo này. Tác phẩm nói lên nỗi buồn sâu sắc, lòng nhớ nhà, quê hương và tình thương đối với phụ nữ yếu đuối đi xa. Bài thơ tuân theo thể thức ngôn bát cú, với 8 câu thơ thể hiện tâm hồn và cảnh vật trước núi rừng hiu quạnh.
'Bước chân tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa'
Hai câu thể hiện rõ hình ảnh rừng núi hoang sơ khi 'bóng xế tà' buông xuống. Khung cảnh chiều u buồn, gợn sầu, thể hiện sự nhớ nhung muốn chia sẻ nỗi lòng mà không có ai bên cạnh. Chỉ có 'cây cỏ chen đá, lá chen hoa' hiu quạnh. Từ 'chen' làm nổi bật sức sống của cỏ, cây, đồng thời truyền đạt ý chí sinh sôi, nảy nở.
'Lặng lẽ dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà'
Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan
Chỉ sau hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người mới hiện hữu. 'Người tiều phu' lựa chọn lượm củi, từ 'lom khom' nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc của họ. Việc kiếm từng khúc củi trở nên khó khăn, số lượng cảm nhận được là ít ỏi, tạo nên sự cô đơn trong tìm kiếm bạn đồng hành.
Chuyển sang hai câu thơ tiếp theo, tác giả truyền đạt cảm xúc của mình rõ ràng hơn:
'Nhớ quê, đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà, mỏi miệng gia gia'
Ở giữa khu rừng sâu, tiếng chim cuốc vang lên như tiếng lòng đau đớn. Đó có thể là cảm xúc của nhà thơ hay âm thanh của chính cảnh. Bằng ngôn từ và nghệ thuật chơi chữ, tác giả lên tiếng về tâm trạng trước cảnh đẹp. Tiếng kêu của chim làm tăng lên cảm giác cô đơn, có lẽ là biểu hiện của tâm trạng nhớ thương quê hương?
Sự bao la, vô tận của non nước như làm tan biến bóng dáng một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người hòa quyện vào nhau, tạo nên nỗi buồn da diết lưu lại.
'Dừng chân đứng lại, trời non nước
Mảnh tình riêng, ta với ta'