Tản Đà (1889 - 1939) đã viết những dòng thơ đầy ý nghĩa:
'Tài cao, phận thấp, lòng can đảm,
Bước ra giang hồ mê đắm quên quê hương'.
(Thăm lại mộ bên đường)
Người đọc từ xưa đến nay vẫn cảm nhận được bóng dáng của Tản Đà qua những bài thơ ấy. Người thơ tên là Nguyễn Khắc Hiếu, lấy núi Tản và sông Đà làm biệt danh. 'Giấc mộng lớn', 'Khối tình con', 'Thề non nước' là những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà. Tài hoa, tài tử, lãng mạn, giang hồ... đều hiện hữu trong thơ, văn của Tản Đà. Trong những năm XX của thế kỉ này, Tản Đà được coi là một thi bá tài năng trên đàn thơ Việt Nam. Ông được nhà văn Hoài Thanh tôn vinh là 'Người của hai thế kỉ”, vì thơ văn của Tản Đà là điểm nối giữa hai giai đoạn văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.
Bài thơ 'Thề non nước' là một tác phẩm xuất sắc của Tản Đà. Bài thơ nằm trong tập truyện ngắn cùng tên, được Tản Đà viết vào năm 1921. Câu chuyện kể về cô đào Vân Anh và một du khách, hai nhân vật chính trong truyện, ngồi bên nhau uống rượu, cùng nhau sáng tạo ra một bức tranh sơn thuỷ - một bức cổ họa - với ba chữ viết bằng chữ Nôm 'Thề Non nước'. Bức cổ họa chỉ có một dãy núi, không hình dung sông nước, dưới chân núi là một đám dâu, tạo nên cảnh tượng tang thương và biến đổi. Bài thơ viết bằng thể lục bát, gồm 22 câu thơ. Bốn câu đầu tiên là lời vịnh của du khách, 10 câu tiếp theo là của cô đào Vân Anh, 6 câu tiếp sau lại là của du khách, và 2 câu cuối cùng là tiếng thơ của Vân Anh.
Bên cạnh những chi tiết nghệ thuật tạo nên bức tranh sơn thuỷ, bài thơ 'Thề non nước' còn ca ngợi một mối tình chung thuỷ không biến chất của đôi trái tim, đồng thời ẩn chứa một tình yêu dành cho quê hương sâu thẳm và kín đáo.
1 - Hình ảnh của bức tranh sơn thuỷ.
Mặc dù được gọi là bức tranh sơn thuỷ, nhưng không có 'thuỷ' vì 'Nước đi mãi không về cùng non'. Chỉ có núi, một dãy 'Non cao nhìn chờ trông'. Có cây mai già trụi lá trơ cành (xương mai). Có sương tuyết và mây dày phủ trên đỉnh núi. Có ngàn dâu xanh mướt dưới chân núi, gợi lên hình ảnh tang thương biến đổi. Toàn bộ bức tranh được phủ màu vàng tà dương:
'Trời tây nghiêng bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng pha chói'.
Có thể nói, đó là một bức tranh cổ đẹp mà buồn, chứa đựng trong đó cái tình thương nhớ và tang thương.
Nước non đều nặng một lời thề.
Giống như thuyền và bến, trong bài thơ này 'non' và 'nước' là biểu tượng của tình yêu đôi, của trai và gái, của người đàn ông và phụ nữ. Đôi trái tim, non và nước đã hứa thề, đã đặt lời thề nặng nề. Lời thề sâu sắc và bền vững như non như nước. Tình cảnh thật đau lòng và đáng thương. Hai trái tim đang trải qua những năm dài xa cách 'Nước đi chưa về, non vẫn đứng trơ trọi”. Khi nhìn vào bức tranh, du khách đã cảm động nói: 'núi tương tư'.
Sau những năm chờ đợi, nhớ nhung và đau buồn, người phụ nữ (non) đã trở thành một bóng hình cô đơn 'non vẫn đứng trơ trọi'. Khóc lóc thảm thiết, bao nhiêu giọt nước mắt đã trôi: 'Suối cạn dòng lệ đợi chờ tháng ngày'. Thân hình mảnh mai đáng thương như một cây mai già trụi lá trần trụi: 'Xương mai một nấm hao gầy'. Mái tóc xanh mềm mại như mây ngày xưa, bây giờ đã bạc trắng: 'Tóc mây một mái đã phủ bởi tuyết sương'. Tình yêu đi mãi không trở lại, người phụ nữ mỗi năm một già đi, đã bước vào chiều tà, vẻ đẹp phai nhạt. Đâu còn nữa 'vẻ đẹp tự nhiên' và 'nét đẹp dịu dàng' như xưa: 'Bầu trời phía tây nghiêng bóng tà dương - Càng lộ diện, vẻ đẹp tự nhiên, nét dịu dàng tựa như vàng rực'.
Tản Đà đã sáng tạo ra những hình ảnh ẩn dụ để diễn đạt nỗi buồn cô đơn, tương tư của người phụ nữ. Có không ít câu thơ trong bài 'Thề non nước' không kém phần đẹp và hay so với những câu thơ của Kiều của Nguyễn Du. ''Tóc mây', 'xương mai', 'nét vàng', 'vẻ đẹp tự nhiên', đặc biệt 'suối cạn dòng lệ'. là những hình ảnh lãng mạn nói về vẻ đẹp và bi kịch của tình yêu của người phụ nữ. Còn nước mắt đâu mà 'tuôn'. Từ 'cạn' thể hiện sự chọn từ, sử dụng từ của Tản Đà rất tinh tế, chính xác.
Không cần nhìn vào bức tranh mà chỉ đọc vài câu thơ cũng như hiện lên trước mắt chúng ta một cảnh 'núi tương tư' như vậy:
'Non cao nhìn chờ trông,
Suối khô, dòng lệ mong chờ tháng ngày.
Xương mai một cành già trơ trụi
Tóc mây một mái phủ đầy tuyết sương.
Bầu trời tây nghiêng bóng tà dương,
Lộ diện vẻ đẹp tự nhiên, nét dịu dàng tựa vàng rực'.
Càng nhớ nhau, lòng càng rối bời: 'Non vẫn nhớ nước, nước vẫn quên non'. Tuy nàng phụ nữ vẫn kiên định giữ lời thề:
'Dù cho sông cạn, đá mòn
Cồn non, cồn nước vẫn giữ lời thề xưa'.
'Dù... vẫn...' niềm tin được khẳng định. 'Sông cạn, đá mòn' là một câu thành ngữ, nêu lên một giả định không thể xảy ra. Và dù có xảy ra trong bất cứ trường hợp nào, thì người phụ nữ vẫn kiên định bảo vệ lời thề xưa. Ba chữ 'vẫn' trong dòng thơ đã thể hiện sâu sắc, cảm động mối tình kiên định, bền vững của người phụ nữ.
Nước đã trôi xa, tình yêu đã xa, chỉ còn lại tiếng reo vang trong không gian và thời gian địa lìa. Hẹn ngày gặp lại. Hẹn ngày sum vầy, đoàn tụ của đôi trái tim. Chia sẻ nỗi buồn, dỗ dành tình yêu:
'Non đã biết mơ chưa?
Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hẹn ngày hội ngộ,
Dẫu cho non có buồn cũng chẳng sao'.
'Ngàn dâu xanh tốt' như một dấu vết của thời gian, như một biểu hiện của tang thương đã trải qua biến đổi, và vẫn còn tồn tại như một đồ vật kỉ niệm, vì vậy 'non vẫn hãy vui'.
Hai câu kết như sự hòa mình vào một lời thề, 'thề non nước':
'Nghìn năm ước hẹn kết đôi,
Non non nước nước, không bao giờ quên lời thề'.
Đã có lời 'thệ hải minh sơn” trong tình yêu. Đã có 'đám cưới bạc'. Cũng có “đám cưới vàng'... Cuộc sống ngắn ngủi chỉ mấy chục năm. Nhưng lời thề của 'non' và 'nước' là lời thề 'nghìn năm' kết đôi, kiên định và vững bền. Đó là một lời thề sâu sắc, bền vững đến mãi mãi.
Nghệ thuật sử dụng kỹ thuật 'phân - hợp' ngôn ngữ của Tản Đà rất tinh tế để diễn đạt và thấu hiểu cảm xúc tâm hồn. 'Ngóng chờ' được diễn đạt thành 'những ngóng cùng trăng” để tả sự căng thẳng của việc chờ đợi, trông mong. Trong cảnh xa cách, hình ảnh ''non'' và 'nước' xuất hiện ở hai đầu của câu thơ 'Nước đi mãi không về cùng non'. Trong bức tranh hội ngộ, sum vầy của đôi trái tim, non và nước sẽ trở thành một, bền chặt như keo sơn, không bao giờ phai mờ, không bao giờ lãng quên!
Tóm lại, lời thề của non và nước được nhắc đến một cách thân thiết, trung thành và xúc động.
3. Nước vẫn chưa trở lại...
Bài thơ 'Thề non nước' mang nhiều ý nghĩa. Nó vẽ lên hình ảnh thiên nhiên trong tranh đẹp mắt. Nó thể hiện tình cảm lãng mạn vốn có của Tản Đà. Ngoài ra, bài thơ còn chứa đựng tình yêu thương mạnh mẽ của nhà thơ dành cho Tổ quốc và đất nước trong tình thế mất chủ quyền. Đầu thế kỷ XX, nhiều nhà thơ đã bày tỏ lòng yêu nước một cách im lặng:
'Có phải nhớ hoa gọi chẳng nguôi
Hay là nước mơ vẫn còn đó'.
(Cuốc kêu ngọn lửa' – Nguyễn Khuyến)
'... Gánh nặng tôi mang ra đi!
Hướng nhìn sông dài, bao la bầu trời đêm...
Vì yêu nước khô cạn, nặng trĩu tôi dám gọi ai!
(...) Bước chân trong đêm tối, lòng gái run rẩy
Trách nhiệm nặng nề như nước non, phẩm chất của người chồng có đáng trân trọng không!'.
(Gánh nặng nước đêm – Trần Tuấn Khải)
'Kia bức tranh phong cảnh mờ mịt
Sông núi hiền hòa như biết cười
Bao giờ mới kết thúc những cố gắng vô ích
Tại sao đến hiện tại mọi thứ vẫn trơ trơ...'.
(Vịnh bức cảnh đất trời rách – Tản Đà)
Trong bài thơ 'Thề non nước', hai từ 'non' và 'nước' xuất hiện rất thường xuyên: 27 lần, đôi khi nước nhớ non, đôi khi non gọi nước, đôi khi, non non nước nước... Một dòng thơ sâu sắc, với không ít câu thơ gợi lại nhiều cảm xúc:
''Nước đi mãi mãi, chẳng về lại bên non,'
''Nước đi chưa trở về, non đứng yên lặng,'
Núi cao ngắm nhìn chung thấu,
Suối khô dòng lệ ngóng chờ từng ngày'...
'Núi nhớ nước, nước quên núi...''.
Đặt bài thơ 'Thề non nước' bên cạnh các tác phẩm như 'Chim họa mi trong lồng', 'Vịnh bức địa đồ rách', chúng ta thấy rõ tình yêu nước được nhà thơ ẩn dụ vào các từ 'nhớ nước', 'quên núi”. Tình yêu nước hiện diện khắp bài thơ. Dưới sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, trên trường thi công bố. Tản Đà đã diễn đạt về tình yêu quê hương một cách tinh tế và cảm động. Trong thời kỳ thuộc địa Pháp, bài thơ 'Thề non nước' như một dấu mốc chỉ đường cho người đọc, đặc biệt là thanh niên hiểu sâu hơn nỗi lòng của Phan Bội Châu, của Phạm Tất Đắc, v.v...
'Khơi dậy lòng dạ núi cao
Khói phủ khắp, sóng cuồn xoáy...
('Thư huyết hải ngoại” - Phan Bội Châu)
'Tưởng lòng héo hắt, cảm xúc trì trệ
Nhìn núi sông dằn vặt, dòng chảy...'
(''Chiêu mộng nước' - Phạm Tất Đắc)
Tóm lại, 'Thề non nước' là một bài thơ tuyệt vời của thi hào Tản Đà, lưu diễm tình cảm trong những câu thơ về nhớ nhung, mong chờ. Chờ đợi người yêu, nặng lời thề, xa xôi. Nhớ nhung đến hồn nước. Các kỹ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, điệp từ, biện pháp phân - hợp và những câu lục bát tuyệt hay, gợi nhớ mãi sau mỗi lần đọc.
Thi hào Tản Đà đã diễn đạt những tình cảm của chúng ta. 'Thề non nước' thể hiện một cách tuyệt vời tài hoa phong tình của ông.
Lời thề cổ xưa vẫn vang vọng trong tim ta. Một biển yêu thương, kỳ vọng, chờ đợi vô biên:
'Ngàn năm hứa hẹn liên đôi
Non non nước nước vẫn còn lời thề'.
Bến của tôi