Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Thơ Đường thường được coi là nghiêm túc với các quy luật về niêm, luật và cấu trúc. Tuy nhiên, những nguyên tắc nghiêm ngặt đó không thể kiềm chế được sự sáng tạo của những nhà thơ như Đỗ Phủ. Dưới bút pháp của ông, bài thơ không chỉ tuân thủ niêm luật mà còn bay bổng tự do tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như viên ngọc được chiếu sáng từ nhiều góc độ khác nhau. Bài Thu hứng vẫn giữ được đặc điểm này.
Theo luật Đường thi, một bài thơ thất ngôn phải có bố cục 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Bài Thu hứng cũng tuân thủ bố cục 4 phần này. Hai câu đề giới thiệu cảnh Vu Sơn, Vu Giáp. Hai câu thực tả chi tiết cảnh núi Vu, kẽm Vu. Hai câu luận là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi ngắm cảnh trên. Hai câu kết trở lại một hình ảnh sinh hoạt bình thường nhưng đã trở thành một hình ảnh giàu sức gợi cảm trong thơ Đường: Cảnh giặt áo mùa thu. Cảnh này thêm vào nỗi lòng nhớ quê trong hai câu luận, làm bài thơ khép lại về ý nghĩa nhưng mở ra về nội dung trong tâm hồn người đọc.
Xét theo nội dung chung, bài Thu hứng có bố cục hai phần: Bốn câu đầu tả cảnh, cảnh núi sông của vùng Quỳ Dân, thượng nguồn Trường Giang, nơi Đỗ Phủ đến vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới là tả tình, tình của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh và tình ấy tạo nên sự thống nhất của bài thơ.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh mùa thu
Đầu tiên là cảnh mùa thu của một địa danh cụ thể. Người đọc biết rằng đây là tả cảnh vùng Quỳ Dân trước thượng nguồn sông Trường Giang. Không chỉ có địa danh Vu Sơn, Vu Giáp ở câu thứ hai mà cảnh vật đặc trưng của vùng này được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong sương móc trắng, cảnh kẽm Vu vách núi đứng khí trời mù mịt, núi Vu cao vút hiểm trở. Bức tranh phong cảnh hùng vĩ và u ám hiện ra qua ngòi bút của Đỗ Phủ. Bức tranh này có sự liên kết chặt chẽ, dần dần hiện ra qua bước chân người. Ban đầu là cảnh rừng phong trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng này, Vu Sơn, Vu Giáp hiện ra qua một nét phác họa chung ở câu thứ hai. Câu thứ ba, thứ tư mô tả hai cảnh tiêu biểu nhất của núi Vu. Bức tranh có toàn bộ và chi tiết, có cái bao quát và chi tiết chứng tỏ một ngòi bút miêu tả lịch thiệp, linh hoạt.
Cảm xúc của tác giả được truyền đạt qua từng nét vẽ, lan tỏa vào lòng độc giả. Câu thơ đầu tiên bảy từ, hai chi tiết mô tả, mỗi chi tiết đều gợi nỗi buồn, từ sự lạnh lẽo của màu trắng phủ sương mù khắp nơi, đến sự tang thương của rừng phong tiêu điều. Cảm xúc trở nên rộng lớn và sâu sắc hơn với mỗi chi tiết miêu tả, khiến cảnh vật hùng vĩ nhưng đau buồn, bí ẩn nhưng u ám hơn. Tới hai câu thứ ba, bức tranh không chỉ có sự nhất quán với hai câu trước, mà còn phát triển. Trong khi mô tả núi Vu, kẽm Vu, mỗi nơi tác giả miêu tả một chi tiết, nhưng cảnh vật trở nên sống động hơn. Sóng “lãng kiêm thiên dũng” (cao vút đến trời) vừa tạo nên chiều cao sâu thẳm của kẽm Vu, vừa tạo nên sự chuyển động mạnh mẽ, mạnh mẽ. Cảnh mây “Sa sầm giáp mặt đất” không chỉ miêu tả chiều cao của cửa ải trên núi Vu mà còn mô tả sự giận dữ của mây, của núi sông và trời, mây và núi không ở trong tình trạng yên bình như cảnh vật hai câu trước mà đang di chuyển với một lực lượng lớn, tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ cho bức tranh. Hai nền cảnh đó bổ sung cho nhau, tạo ra sự đa dạng thống nhất của cảm xúc phát ra từ bức tranh: trầm uất và bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ của Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời. Đứng trước cảnh sắc đó, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ làm sao có thể không nhớ về quê hương.
Chính sự vận động nội tại đó, bốn câu thơ sau xuất hiện một cách tự nhiên và hợp lý. Bốn câu thơ sau mô tả tình cảm nhưng không xa rời cảnh, tình và cảnh gắn kết với nhau. Hai câu thơ 5,6 thể hiện lòng nhớ quê mạnh mẽ với nhiều kỹ thuật mô tả sinh động. Trong câu 5, tình và cảnh hòa quyện với nhau: hoa cúc nở như một bức tranh trước mắt hư ảo, chập chờn. Hiện tại và quá khứ như được nối kết: “giọt lệ ngày xưa” đột ngột rơi xuống cùng với giọt lệ ngày hôm nay. Sự liên kết này tạo ra sự thống nhất, có hai từ “lưỡng khai” với nhiều ý nghĩa ẩn, khiến hình ảnh cúc và lệ trở nên đa chiều. Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo ra trong cùng một cảnh như hình ảnh ở câu 5. Chữ “cố” cũng mang ý nghĩa ẩn: không chỉ giữ con thuyền lạc lõng ở nơi nhà thơ đang sống ở đây, mà còn có ý nghĩa là gói lại, buộc lại nỗi nhớ quê.
Cảm xúc rất mạnh mẽ được mô tả trong câu 5,6 dường như sẽ được mô tả trực tiếp và chi tiết hơn ở hai câu kết. Nhưng ở đây, bài thơ bắt đầu từ mô tả tình cảm chuyển sang mô tả sinh hoạt ngoài đời. Cảnh mọi người vui vẻ may áo rét, giặt giũ quần áo cũ. Dường như hai cảnh này không liên quan đến tình yêu, dường như ý của bài thơ bị lạc lõng, nhưng không phải vậy. Đây là một kỹ thuật nén tình cảm vào bên trong hình ảnh để làm cho lời thơ ý thơ sâu sắc hơn, có khả năng gây rung động mạnh mẽ hơn đối với người đọc. Âm thanh giặt đồ đã là một âm thanh gợi cảm lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ về những người thân xa xôi, miêu tả nỗi nhớ mong chờ. Bạch Cư Dị đã mô tả tình cảm của một phụ nữ sau khi nghe tiếng chày giặt lụa mà “buổi sáng anh dậy có tâm trạng u buồn”. Do đó, sự xuất hiện của tiếng chày trong bóng chiều ở đây tạo ra một âm vang cho cả bài thơ.
Nỗi nhớ quê của Đỗ Phủ trong một mùa thu tạo loạn được thể hiện trong bài thơ không chỉ là tâm trạng của một người. Đó là nỗi lòng của hàng trăm gia đình đang phải trải qua cảnh chiến tranh, liên miên bị giặc ngoại xâm, khiến cho nhà thơ phải xa lìa quê hương, lênh đênh trên biển rộng.
Mẫu 2
Bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ là một tác phẩm đặc sắc, tinh tế và sâu sắc. Trong bài thơ này, cảnh và tâm trạng, thi văn và họa, sự hoạt động và tĩnh lặng, thường xen kẽ, đôi khi khó phân biệt.
Bài thơ có thể được chia thành hai phần, với bốn câu đầu mô tả cảnh thu và bốn câu sau mô tả nỗi lòng của nhà thơ. Mặc dù việc phân chia như vậy có tính logic hợp lý, nhưng chưa thể nắm bắt được mối quan hệ sâu xa giữa hai phần của bài thơ. Trong thơ cổ, đặc biệt là thơ Đường, có một quan điểm rằng con người và vũ trụ là một thể thống nhất ('Thiên nhân tương đồng'). Cái 'tôi' (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái 'ta' vũ trụ (đại ngã). Do đó, các nhà thơ cổ thường nói về mối liên hệ này. Đó là 'Tâm nhập vào cảnh' (Vương Xương Linh), 'Lòng nhập vào cảnh', 'Tình dĩ cảnh hội' (Yên Hoàng Đạo), 'Tình bất gặp cảnh', 'Cảnh dĩ tình hợp', 'Tình dĩ cảnh sinh' (Vương Phu Phi). Ngay từ bốn câu đầu, thông qua những chi tiết mô tả cảnh, nhà thơ đã truyền đạt góc nhìn đầy cảm xúc của mình. Dù cảnh vật ở đây có vẻ rõ ràng hơn, 'khách quan' hơn so với bốn câu sau, nhưng đã thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ nói về mùa thu và có địa điểm cụ thể là Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng nguồn sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tỉnh Tứ Xuyên). Cảnh vật được mô tả với sự hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lên trời, mây sa mặt đất. Cảnh này hiện lên như trên một bức tranh diễn ra nhanh chóng. Ong kính hắt đầu từ rặng phong tiêu điều với sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), (chữ 'lác đác' trong bản dịch chưa thực sát với nghĩa gốc), đến cảnh núi Vu và kẽm Vu hiu hắt, sau đó đến những đợt sóng bọt trên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những đám mây sa sẩm giáp mặt đất tại cửa ải. Bốn câu thơ này cũng khiến chúng ta nhớ đến những bức tranh thuỷ mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện ra trong 'thần', trong 'hồn' của nó. Nhưng sau bức tranh ấy ẩn chứa bao nhiêu tâm trạng. Tâm trạng ấy thể hiện ở sự lựa chọn cảnh vật. Nhà thơ không chỉ nghiên cứu vật thể mình quan sát (bên trong hoặc bên ngoài), mà còn sắp xếp, chỉnh sửa chúng để phù hợp với cảm nhận duy lí. Thơ cổ không phân biệt rõ ràng chủ thể và khách thể. Ngay từ chi tiết chấm phá đầu tiên 'Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm' đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong khiến ta nhớ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ. Cây phong trong thơ Đường thường gắn với nỗi buồn, với sự chia ly. Trong Tì bà hành (Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu), trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có 'Rừng phong thu dã nhuốm màu quan san' đều hiu hắt trong mắt nàng Kiều.
Những chi tiết cảnh tiếp theo dường như càng làm tôn thêm sự hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn của nhà thơ. Cảnh vật ở đây có vẻ hùng vĩ nhưng không thể làm tan đi nỗi buồn, hiu hắt tràn từ núi đến rừng.
Hai câu thơ tiếp theo tạo ra một sự đối lập trong bức tranh 'Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng - Tái thượng phong vân tiếp địa âm' (Lưng trời sóng rợn lòng sông thám - Mặt đất mây đùn cửa ải xa) mang lại cho chúng ta ấn tượng đối lập: một cảnh vừa dữ dội, hoành tráng, vừa bức bối, bị vây hãm không thoát ra được. Đúng là một 'tâm cảnh' trong con mắt của một người xa quê, nhớ quê, trái tim buồn thương, đồng thời cũng bứt rứt, bức bối, không yên khi nhìn về quê hương và nhìn ra thế sự. Kim Thánh Thân đúng khi bình rằng: 'ngước mắt nhìn sông chì thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thây gió mây mịt mờ liền đất. Thực đúng đau tức, bi thương, khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt'.
Bốn câu cuối cùng, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây, những cảm xúc được thể hiện một cách trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn sâu sắc, tinh tế. Cái nhìn duy lí đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả đề cập đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là 'tâm' hay là 'cảnh', không thể phân biệt. 'Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ' (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và 'Cô chu nhất hệ cố viên tâm' (Con thuyền lẻ loi buột chặt tâm lòng nhớ vườn củ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người. Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: 'Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ' hoặc có thể hiểu 'Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ'. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây 'cánh' đã nhòa vào 'tâm', đã 'hội' vào 'tâm'. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dây lòng). So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thể hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành đô đến Quý Châu đã được hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng 'lệ cũ' của nhà thơ không chỉ 'tuôn' ra một lần mà đá nhiều lần rồi. Và đúng như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thanh khốc, cảm thời hoa tiền lệ...
Hai câu thơ kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là tỏ lòng, nêu trực tiếp cảm xúc nhưng đây tác giả lại hướng nó về cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ờ đoạn đầu, cảnh khách quan là 'tĩnh' thì ở đày lại 'động'. Cảnh rộn ràng hơn trong không khí 'rộn ràng dao thước để may áo rét' và âm thanh tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế. Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Thế nhưng, đó chỉ là ngoại cảnh, tấm lòng nhà thơ thì chưa chắc đã có đổi thay. Bởi góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn. Nó dường như cùng hòa vào 'gam' nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị (Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi) Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một ( thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.
Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương, khắc khoải trong tình quê nặng và nỗi âu lo kín đáo về thế sự.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Đứng ở thành Quỳ Châu, ngắm nhìn cảnh đẹp xung quanh. Sương mù bao phủ, lá phong vàng rơi, trên núi Vu Sơn, Vu Giáp, không khí se lạnh. Trên dòng sông xa xa, sóng nước dâng lên gần trời. Trên ngọn núi, mây lơ lửng kết nối với đất. Nhìn thấy tất cả, tôi nhớ lại thời gian lưu lạc, nhớ về quê nhà, và lòng tôi cảm thấy buồn bã, ngậm ngùi.
Ở đây tạm trú, không phải lâu dài. Nhớ về quê nhà, như thuyền lênh đênh giữa dòng sông. Nhưng không biết ngày nào là ngày ấy. Mùa thu sắp qua, mùa đông sắp đến, trên thành Bạch Đế, mỗi chiều, tiếng chày đập vải vang vọng, nhắc nhở những người quên mất việc chuẩn bị áo ấm. Điều đó làm tôi cảm thấy buồn thêm.
Dịch thơ:
Rừng phong lác đác rơi lá,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thăm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc nở hoa, giọt lệ rơi,
Con thuyền buộc chặt nỗi nhớ quê.
Áo lạnh kêu kẻ tay cầm kéo,
Thành Bạch chày vang bóng châm ơi.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Hứng” là nói “nổi lên” (hứng). Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sì trước thu thì tình sâu xa; phàm núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nghe, có gì là không cùng với tấc lòng cùng chứa chất nhau, là không chợt tự nhiên tiếp xúc mà phát sinh ra. Tiên sinh với tấm lòng trung tín gặp buổi nhiêu linh, lại đem cái thân lưu ngụ trải qua mùa thu héo rạng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý tiêu tan, chẳng có mảy may hứng nào, vì thế có tám bài này. Số bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng); thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. Người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muốn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là tha diệu mà đề cũng đúng thực là để diệu; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. Từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. Như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. Tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà có người chưa mấy tin: xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tám thuần tả “hứng” thì sẽ biết tám bài là một vậy.
(1 - 4) “Lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cây) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong); chỉ một cõi “điêu thương* (héo hon) mà “trắng” thì tả rất mực “trắng”, “đỏ” thì tả rất mực “đỏ”, “thu” sở dĩ “hứng” chính là vì thế. Tiếp theo hạ chữ “Vu Sơn”, “Vu Giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sùm” (mịt mờ), thảy đều lạnh lùng, vắng lặng, mà hai câu “ba lãng”, “phong ván” thì thừa tiếp ngay “Vu Sơn, Vu Giáp”. Còn như nói “móc ngọc” tả tơi, “rừng phong” soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĩ thêm nỗi bi ai, cũng là nơi mà kẻ u nhân gửi niềm hoài bão. Sao lại ở hoài chốn Vu Sơn, Vu Giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất?
Thực đáng đau đớn bi thương! Khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt. Một giải xâu suốt cả tám bài, nối thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp nhặt lóng chim thúy), rồi than “bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy” (đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn).
(5 - 8) Kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều là “tha nhật lệ” (nước mắt ngày sau)! Kẻ không biết thì bảo “cô chu” (con thuyền lẻ loi) hà tất phải “nhất hệ” ấy chỉ là “cố viên tâm” (lòng nhớ vườn xưa)! Trên chữ “lệ” đặt chữ “tha nhật”: tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói “xứ xứ” (nơi nơi) chính là tiên sinh “buộc lòng” (hệ tâm) vào một nơi (nhất xứ); Bạch Đế thành ở phía đông Quý Phủ: đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ đến “dao thước” (dao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành Bạch Đế; khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới “châm” mà hạ chữ “thành cao” liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ của khách xa nhà vì đó mà rất mực thê lương. Các câu 3, 4 thừa các câu 1, 2; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8: cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.
Bài thơ này mô tả một buổi chiều thu ở Quý Châu khi Đỗ Phủ đang sống trong cảnh phiêu bạt. Bức tranh mùa thu u ám, buồn bã kết hợp với tâm trạng u sầu của nhà thơ trong bối cảnh đất nước rối ren vì chiến tranh và ông lưu lạc ở quê người. Mỗi câu thơ đều chứa đựng tâm trạng đau đớn, niềm thương nhớ về quê hương xa xôi và sự bất hạnh của Đỗ Phủ.
Bài thơ tập trung vào việc mô tả cảnh vật mùa thu, từ rừng phong, núi non đến dòng sông, mây trời và tiếng chày đập vải. Từng chi tiết được miêu tả một cách sắc nét, tạo nên một bức tranh mùa thu rộng lớn và đầy cảm xúc. Ông thể hiện tình cảm của mình qua hình ảnh hoa cúc và con thuyền, thể hiện sự khao khát trở về quê hương.
Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được sự đau đớn, buồn bã trong tâm hồn của Đỗ Phủ và cảm nhận được vẻ đẹp u buồn của mùa thu. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một bức tranh chân thực về cuộc sống và tâm trạng của con người trong một thời kỳ khó khăn của lịch sử.