Đề bài: Phân tích bài thơ Thu vịnh
Mẫu phân tích bài thơ Thu vịnh
Mẫu văn: Phân tích bài thơ Thu vịnh
Mùa thu từ xưa đến nay luôn là nguồn cảm hứng phong phú trong các tác phẩm văn học, âm nhạc và hội họa. Mùa thu mang đến vẻ đẹp tinh tế, lãng mạn, thỉnh thoảng mơ màng, thỉnh thoảng buồn bã, khơi gợi nhiều cảm xúc khác nhau trong lòng con người. Và Nguyễn Khuyến cũng không phải là ngoại lệ, với bài thơ về mùa thu rất nổi tiếng như Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, nói về ba trải nghiệm thú vị của mùa thu. Trong số đó, bài thơ Thu vịnh được xem là tác phẩm mang đậm nét đặc trưng về cảnh vật mùa thu ở nông thôn, đơn sơ và thanh bình.
Thu vịnh được hiểu là việc ca tụng, khen ngợi về mùa thu. Mặc dù có một số quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang lặng lẽ ngắm nhìn mùa thu để viết thơ, nhưng điều này chưa chính xác. Bài thơ toát lên vẻ bay bổng của những dòng thơ, dù ban đầu có vẻ chỉ là mô tả về mùa thu, nhưng khi đọc một cách sâu sắc hơn, ta sẽ nhận ra rằng nó còn chứa đựng nhiều suy tư, tâm tình của một người yêu nước, yêu dân.
Mở đầu cho bức tranh mùa thu là hai câu thơ:
'Bầu trời thu xanh ngắt cao vút,
Cành trúc lơ phơ, gió hiu hắt.'
Khung cảnh mùa thu hiện lên trong sự trong trẻo, mịn màng, với bầu trời chất chứa mây xanh ngắt, cao vút, tô điểm thêm cho khung cảnh trải rộng ấy. Thi nhân khắc họa một cánh trúc 'lơ phơ', mềm mại, bay bổng trong làn gió se lạnh 'hiu hắt'. 'Bầu trời thu xanh ngắt' là biểu hiện của tình cảm sâu đậm mà nhà thơ dành cho mùa thu tại quê hương, một mùa thu của vùng Bắc, với nét đặc trưng là 'cành trúc lơ phơ', vẫn mang đậm vẻ mềm mại, nhưng không yếu đuối, lả lướt như liễu. Giọng thơ nhẹ nhàng, chậm rãi, mang đậm nét buồn vương vấn trong hai từ 'hiu hắt', liệu thi nhân có ý gì phiền lòng?
'Nước biếc như tảng khói phủ, Song cỏ cây để mặc bóng trăng.'
Ở trên là 'bầu trời xanh', ở dưới là 'nước biếc', cả hai đều mang màu xanh trong trẻo, dịu dàng, liệu có thể có cảnh sắc nào tuyệt vời hơn? Đôi khi người đọc, vì không hiểu rõ về nghệ thuật 'đảo trang' trong thơ, thường hiểu nhầm hoặc không rõ ý nghĩa của câu thơ. Ở đây, ý thơ là như lớp sương mù giống như khói phủ trên mặt nước biếc. Từ 'biếc' không chỉ là màu nước mà còn là một sự tưởng tượng, được nhà thơ tạo ra và viết vào để vần chữ. Tương tự, ở câu dưới, từ 'thưa' cũng được sử dụng với mục đích tương tự. Chúng ta nhận ra rằng, cảnh mùa thu trong bài thơ được tác giả miêu tả tinh tế qua hai thời kỳ của ngày, ban ngày thì thấy bầu trời xanh, nước biếc, ban đêm thì nhìn thấy cảnh ánh trăng vàng, dịu dàng len lỏi qua những hàng cây. Trăng cùng mùa thu là hai thực thể thường xuyên xuất hiện cùng nhau trong thơ ca và văn học mùa thu. Trăng không chỉ là người bạn đồng hành đắc lực của thi nhân vào những đêm tĩnh lặng, mà còn là đối tác thân thiết trong những lúc tâm hồn cô đơn, thấp thỏm. Việc nhìn ngắm trăng để làm thơ cũng là một thú vui tao nhã. Nhờ có ánh trăng này, mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến trở nên mộng mơ, lãng mạn hơn, vừa thanh tao, nhã nhặn.
'Bao nụ trước giậu héo úa hồi năm xưa
Một lần trên trời tiếng ngỗng lạ đã vang?'
Dòng từ 'hoa năm xưa' không chỉ đơn giản là hoa đã nở từ một năm trước mà chính là tâm trạng hoài niệm về quá khứ, một quá khứ đang hiện hữu trong tâm trí của thi sĩ, mang đến trong bài thơ những khao khát, nỗi buồn của tác giả. Đó là một ký ức ngọt ngào, nhưng cũng đầy xót xa, khiến tác giả đầy tiếc nuối. Trong không gian yên bình, bỗng dưng tiếng gà rừng kêu vang lên, làm sống lại tinh thần của thi sĩ, đánh thức cả không gian thu mộc mạc, mang đến chút âm điệu thanh bình, tan đi nỗi cô đơn, buồn phiền.
Ở hai câu thơ cuối, tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ hơn:
'Bây giờ, ngồi viết, lòng lại thổn thức
Ôi, cảm thấy nhỏ bé trước người Đào'
Giữa khung cảnh mùa thu tuyệt đẹp và lãng mạn như vậy, liệu có ai trong số các thi nhân không bị rung động, chỉ cần nhìn là muốn lấy bút viết một loạt những bài thơ, những bài ca ca ngợi để thỏa mãn niềm đam mê? Nhưng đột nhiên, trong tâm trí của Nguyễn Khuyến xuất hiện một suy nghĩ rất đặc biệt 'thẹn trước ông Đào', và ở đây, 'Đào' là Đào Tiềm (tên khác là Đào Uyên Minh), một nhà thơ vô cùng nổi tiếng trong thời kỳ Lục Triều (Trung Quốc), ông là một nhà học xuất sắc, từng đỗ tiến sĩ và sau đó rời bỏ chức quan, chán ghét cuộc sống ồn ào và xáo trộn ở triều đình, ông chọn sự bình yên và thanh lịch trong việc viết thơ và sống một cuộc đời ẩn dật. Vậy lý do gì khiến Nguyễn Khuyến cảm thấy 'thẹn', dù cho ông cũng không hề kém cạnh về học thức và tài năng? Câu trả lời nằm ở sự tự tiếc khi không thể so sánh được với tinh thần lãng mạn và thanh cao của một quân tử, như Đào Tiềm, người sẵn lòng từ bỏ cuộc sống quan trọng khi chán ghét, và không màng đến thế sự để sống một cuộc đời thanh cao và tinh tế. Trái lại, Nguyễn Khuyến vẫn không thể từ bỏ sự nghiệp quan trọng dưới thời Pháp thuộc, và cảm thấy tiếc nuối về quá khứ khi làm quan đầy xáo trộn và nhục nhã. Đây chính là lý do khiến từ 'thẹn' xuất hiện ở cuối bài thơ. Nhưng cũng chính những dòng thơ chân thành đó làm cho chúng ta hiểu được tấm lòng cao quý, chân thành của một người quân tử, không trốn tránh thực tế mà sẵn lòng chấp nhận, để hiểu và tự học từ những lỗi lầm đã qua, một nhân cách đáng trân trọng đến cỡ nào.
Thu vịnh là một bài thơ tuyệt vời và độc đáo, mang hương vị của mùa thu miền quê Việt Nam rất rõ ràng và chân thực. Những dòng thơ với nhịp điệu chậm rãi, đầy tư duy, có những phần hơi lạ và khó hiểu đã đem lại cho người đọc những trải nghiệm mới về một mùa thu trong tâm hồn của thi sĩ. Đặc biệt, thông qua những dòng thơ chân thành đó, chúng ta cũng hiểu thêm về nỗi lòng của tác giả, nỗi tự ái cũng như lòng yêu nước và tình thương dân tộc sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Thu vịnh là một trong những tác phẩm nổi bật trong giáo trình ngữ văn lớp 11. Ngoài bài phân tích Thu vịnh, học sinh và giáo viên cũng có thể tìm hiểu thêm nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của nhà thơ Nguyễn Khuyến, cũng như các bài phân tích như Thu ẩm, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Hội Tây, hoặc các phần soạn bài về Thu ẩm, Thu vịnh. Rất nhiều bài văn mẫu chắc chắn sẽ là tài liệu học tập tốt nhất cho học sinh.