Đề bài: Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
I. Cấu trúc chi tiết
1. Giới thiệu
2. Phân tích nội dung
3. Kết luận
II. Bài mẫu văn bản
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
I. Kế hoạch Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu (Chuẩn)
1. Bắt đầu
- Giới thiệu về nhà thơ Chế Lan Viên.
- Giới thiệu bài thơ Tiếng hát con tàu.
2. Phần thân bài:
a. Nhan đề và lời đề từ:
- Nhan đề “Tiếng hát con tàu”:
+ Biểu tượng cho phong trào nhân dân miền xuôi lên miền núi để xây dựng đất nước với tinh thần say mê, háo hức.
+ Biểu tượng cho phong trào thâm nhập vào thực tế cuộc sống để sáng tạo của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
b. Lời đề từ:
- “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc” mở ra đối tượng và chủ thể chính trong bài thơ là hướng về vùng đất Tây Bắc.
- “Khi lòng ta đã hoá những con tàu/Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” đã nêu ra hai điều kiện để có thể thực hiện được những hành trình lên đường.
- “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”, là kết quả ta có thể hòa nhập với Tây Bắc, ta có thể đóng góp vào việc xây dựng Tây Bắc trở nên giàu đẹp hơn và ngược lại Tây Bắc cũng sẽ mang lại những cảm hứng sáng tạo rộng lớn cho nhiều nghệ sĩ văn hóa.
c. Hai khổ thơ đầu tiên là nỗi trăn trở và lời mời gọi lên đường tha thiết:
- Mở ra hai không gian hoàn toàn đối lập nhau là Tây Bắc và Hà Nội.
+ Tây Bắc hiện lên với những từ “đi xa”, “gió ngàn rú gọi”, “ngoài cửa ô” , “đất nước mênh mông”, “trên kia”, tạo ra một không gian rộng lớn, không gian chung của nhân dân, đầy tự do.
+ Hà Nội lại được tái hiện qua những từ ngữ như “giữ trời Hà Nội”, “đời anh nhỏ hẹp”, “lòng đóng khép”, tạo ra sự chật chội, tù túng, bó hẹp, trong xa hoa, sung túc.
- Câu hỏi Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?”, “Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi/Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”, “Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?” được sắp xếp theo mức độ tăng dần, đòi hỏi nghệ sĩ phải đưa ra một quyết định nhanh chóng và dứt khoát giữa Hà Nội và Tây Bắc.
- “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép/Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”, là quyết định ra đi.
d. Bốn khổ thơ tiếp theo tác giả thể hiện sự mong đợi được quay trở về với mảnh đất kháng chiến, khao khát được trở về với nhân dân.
- Khổ thơ thứ 3 chính là nhận thức của tác giả về mảnh đất Tây Bắc..
- Khổ thơ thứ tư lại là ý thức của tác giả về cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong suốt 9 năm liền.
- Khổ thơ thứ năm tác giả thể hiện niềm vui sung sướng khi gặp lại nhân dân.
- Cụ thể hóa hình ảnh của nhân dân qua các khổ thơ 6, 7, 8. Nhân dân không còn là khái niệm chung chung trừu tượng mà đã được tác giả mô tả cụ thể qua những con người thân thiện, được tác giả gọi là “anh-con”, “em-con”, “mế”, như là người thân trong gia đình.
- Từ việc nhớ về người yêu, tác giả chuyển qua nhớ về cảnh đẹp Tây Bắc.
+ Nỗi nhớ bất chợt về người yêu được diễn đạt bằng một hình ảnh độc đáo “như đông về nhớ rét”, tình yêu của đôi ta được so sánh như “cánh kiến hoa vàng”, như “Xuân đến chim rừng lông trở biếc”. => Triết lý “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”.
+ Trong ký ức về em, tác giả hồi tưởng về những tháng ngày kháng chiến.
e. Bốn khổ thơ cuối bài là đoạn hát lên đường của nhà thơ:
- Khổ thơ thứ 13 đặt một câu hỏi tự đặt ra “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”, khẳng định việc lên đường là do cả đất nước mời gọi quan trọng hơn là do lòng ta mời gọi, thúc đẩy.
- Sau những lời thúc giục, thúc đẩy, nhà thơ chính thức lên đường với tinh thần được thể hiện trong khổ thơ thứ 13.
- Trong không khí lên Tây Bắc, trở lại với nhân dân, tác giả lại nhớ về quá khứ và so sánh với hiện tại trong khổ thơ thứ 14.
3. Kết bài
Tổng kết nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
II. Mẫu văn Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu
1. Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu, mẫu số 1 (Chuẩn):
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã đưa ra một quan điểm sắc bén về phong trào thơ Mới giai đoạn 1932-1941: “Đời sống của chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Khi mất đi bề rộng, chúng ta tìm kiếm bề sâu. Tuy nhiên, điều đó càng sâu, càng lạnh. Chúng ta bay cao cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong thế giới tình cảm với Lưu Trọng Lư, cuồng nhiệt với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, và đắm chìm trong sự say mê của Xuân Diệu…” Ông đã đề cập đến một đặc điểm độc đáo của thơ Chế Lan Viên, là những dòng thơ đau đớn và buồn bã trước cảnh tượng đau lòng, loạn lạc. Chỉ khi cuộc cách mạng tháng Tám thành công, hồn thơ của Chế Lan Viên mới trải qua những biến đổi mạnh mẽ, hướng tới cuộc sống với một tâm hồn sôi nổi và đầy nhiệt huyết. Tất cả những đặc điểm mới này xuất hiện nhiều trong tập Ánh sáng và phù sa, với một trong những bài thơ nổi bật nhất là Tiếng hát con tàu với hai câu thơ có lẽ đã ghi sâu vào trí nhớ của nhiều người: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa thành tâm hồn”.
Ánh sáng và phù sa (1960) được coi là tập thơ đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Chế Lan Viên sau cách mạng thành công. Tiếng hát con tàu được tạo ra dựa trên cảm hứng từ một sự kiện quan trọng về kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, đó là phong trào đưa nhân dân từ miền xuôi lên miền núi Tây Bắc để xây dựng nền kinh tế mới trong giai đoạn 1958-1960, biến địa bàn chiến trường trước kia thành một vùng đất nông trường thịnh vượng.
Trên tựa đề “Tiếng hát con tàu”, hình ảnh “con tàu” được tạo ra như một sáng tạo nghệ thuật, nâng cao thành biểu tượng cho phong trào nhân dân từ miền xuôi lên miền núi, xây dựng đất nước với tinh thần say mê, háo hức và sôi nổi. “Con tàu” không chỉ là biểu tượng của hành trình vật lý mà còn là biểu tượng của hành trình tư tưởng của nhà thơ, từ đau thương buồn bã đến sự vui tươi hứng khởi, từ cái tôi cá nhân chuyển sang cái tôi chung hòa nhập với cộng đồng. Hình ảnh “con tàu” liên quan chặt chẽ đến phong trào thâm nhập vào thực tế cuộc sống để sáng tác, là đặc điểm của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Đồng thời, từ “tiếng hát” là biểu tượng cho sự say mê, hứng khởi, là minh chứng cho sự tự nguyện của nhân dân trên “con tàu” lên vùng Tây Bắc xây dựng kinh tế mới.
Trong lời đề từ, tác giả đã đưa ra những hướng dẫn cho nội dung bài thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc” chứa đựng hai từ “Tây Bắc” trong một câu thơ, không chỉ là vi phạm quy tắc thơ ca mà còn là sự cố ý của tác giả, nhấn mạnh tầm quan trọng của địa danh này trong tâm hồn tác giả. Sự lặp lại này mở ra đối tượng và chủ thể chính của bài thơ, hướng về vùng đất Tây Bắc, nơi đóng vai trò quan trọng trong lịch sử kháng chiến của dân tộc. Tác giả khéo léo kết hợp địa danh và lịch sử để tạo nên một bức tranh chân thực và sâu sắc về vùng đất này. Lời đề từ không chỉ khẳng định sự quan trọng của Tây Bắc mà còn mở ra hai điều kiện cần thiết để thực hiện hành trình lên đường, từ đó hòa nhập với Tây Bắc và đóng góp vào việc xây dựng vùng đất nghèo này.
Trong hai khổ thơ đầu tiên, Chế Lan Viên thể hiện sự trăn trở và lời mời gọi lên đường một cách sâu sắc.
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”
Đất nước bao la, cuộc sống anh hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?
Chẳng có thơ nào giữa lòng chật hẹp
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Nhà thơ mở ra hai không gian đối lập là Tây Bắc và Hà Nội. Tây Bắc hiện lên với những từ ngữ như “đi xa”, “gió ngàn rú gọi”, “ngoài cửa ô”, “đất nước mênh mông”, “trên kia”, tạo nên hình ảnh một không gian rộng lớn, tự do dù có thiếu thốn. Ngược lại, không gian Hà Nội được miêu tả qua từ ngữ “giữ trời Hà Nội”, “đời anh nhỏ hẹp”, “lòng đóng khép”, thể hiện sự chật chội, tù túng. Các câu hỏi như “Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?”, “Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi/Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”, “Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?” được sắp xếp tăng dần về mức độ hối thúc, khẩn trương. Cuối cùng, tác giả đưa ra lựa chọn quyết định giữa Hà Nội và Tây Bắc, khẳng định rằng tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia, tìm cảm hứng mới để hồi sinh hồn thơ và gặp lại chính mình như một nghệ sĩ chân chính.
Sau những suy tư và mời gọi lên đường của chính mình, tác giả chia sẻ tâm hồn khao khát trở về với mảnh đất kháng chiến và gặp lại nhân dân.
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã làm anh hùng
Nơi máu rơi tâm hồn ta thấm đất
Hôm nay rạt rào, đất trải thảm xanh”
Khổ thơ thứ 3 là cảm nhận sâu sắc của tác giả về Tây Bắc. Việc lặp lại từ “Tây Bắc” thể hiện tình cảm đặc biệt của nhà thơ đối với vùng đất này. Tây Bắc không chỉ là nơi anh hùng, mà còn là địa điểm chứng kiến những nỗi đau mất mát, nơi máu tình thắm thiết của dân tộc đã làm ướt đẫm đất đỏ. Qua những đau thương ấy, ngày nay Tây Bắc hồi sinh với mùa màng phong phú, đất trải thảm xanh nên thơ.
Khổ thơ thứ tư là sự nhận thức của tác giả về cuộc kháng chiến lịch sử của nhân dân Việt Nam kéo dài 9 năm.
“Ơi cuộc kháng chiến! Mười năm như ngọn lửa
Sáng soi nẻo đường, ngàn năm vẫn rực sáng
Con đã bước đi nhưng con chưa đủ
Cho con trở về, đón mẹ yêu thương”
Tác giả gọi cuộc kháng chiến như một người thân quen, truyền đạt sự mến mộ và tự hào trước thành công của dân tộc. Ngọn lửa của kháng chiến, biểu tượng cho lòng đoàn kết, sáng tạo, là nguồn lực vô tận soi sáng cho con đường tương lai. Tác giả giao nhiệm vụ cho thế hệ sau: “Con đã bước đi nhưng còn nhiệm vụ lớn”, khích lệ cuộc sống tinh thần, sẵn sàng vượt qua thách thức, đóng góp vào sự phồn thịnh của đất nước. Và cuối cùng, hình ảnh gặp lại “mẹ yêu thương” là biểu tượng cho niềm hạnh phúc, an lành và tình yêu thương gia đình.
Sau những nhận thức và nhiệm vụ, khổ thơ thứ 5 thể hiện niềm vui sướng khi gặp lại nhân dân.
“Con đón nhân dân như nai trở về rừng xưa
Cỏ xanh mừng, chim én chào hòa mình vào mùa
Như đứa trẻ thơ đón nhận tình thương ân ái
Chiếc nôi êm đềm, đón cánh tay mến yêu”
Tác giả so sánh việc 'con gặp lại nhân dân' như 'nai trở về suối cũ', như 'cỏ đón giêng hai', 'như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa', 'như chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa'. Hình ảnh nhỏ bé, giản dị của đời thường được liên kết với những hình ảnh lớn lao, phong phú như nguồn năng lượng vô tận. Từ hình ảnh một 'tôi' chật chội trong khung trời hẹp, đến hình ảnh nhân dân vĩ đại. Trở về với nhân dân, tâm trạng của tôi nghệ sĩ hồi sinh, tràn đầy sức sống, hạnh phúc và say mê. Chân lý hạnh phúc nhất là khi trở về với cuộc sống rộng lớn của nhân dân.
Từ đó, tác giả cụ thể hóa hình ảnh của nhân dân qua các khổ thơ 6, 7, 8.
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư
Nhớ mẹ! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mẹ thức một mùa dài
Con với mẹ không chỉ là huyết thống
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
Nhân dân không còn là khái niệm trừu tượng mà đã được cụ thể qua hình ảnh những con người thân thiết như 'anh-con', 'em-con', 'mẹ'. Nhân dân là 'người anh du kích' với chiếc áo nâu rách, là những đêm công đồn, và là sự gửi gắm tình yêu thương đến thế hệ kế tiếp.
Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh nhân dân hiện lên qua 'thằng em liên lạc'. Bước chân bền bỉ của em in dấu trên mọi nẻo đường Tây Bắc, trong không gian 'rừng rậm', 'bản Na', 'bản Bắc'. Cuối cùng, 'mười năm tròn chưa mất một phong thư', là thành quả xuất sắc của sự kiên trì và hy sinh cho dân tộc.
Trong khổ thơ thứ tám, hình ảnh nhân dân hiện lên qua 'mẹ'. Mẹ với 'lửa hồng soi tóc bạc', mái tóc ghi chép thời gian, phản ánh cuộc sống qua 'mùa dài' thức trông con bệnh. 'Con với mẹ không chỉ là huyết thống, nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi', bộc lộ tình cảm gắn bó vô hạn mà tác giả dành cho nhân dân.
Chuyển từ nhớ về tác giả sang nhớ những khung cảnh ấn tượng ở khổ thơ thứ 9.
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Nếu Quang Dũng nhắc đến rừng núi mơ mộng, Tố Hữu nhớ về người yêu không tên, thì Chế Lan Viên định hình rõ ràng và sâu sắc nỗi nhớ của mình. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa làm nổi bật, vừa thể hiện nỗi nhớ tràn ngập, như 'bản sương giăng', 'đèo mây phủ', là những vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những cảm xúc cá nhân, tác giả nâng lên thành quy luật tình cảm, “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Tiếp theo, tác giả đưa ra một triết lý, “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, tạo ra cặp đối lập 'khi ta ở-khi ta đi', làm cho đất trở thành một phần của tâm hồn khi rời đi.
Từ ký ức về nhân dân và cảnh vật Tây Bắc, tác giả chuyển sang suy ngẫm về tình yêu và sự kết nối đặc biệt với đất lạ.
“Anh đột nhiên hồi tưởng về em như dòng lạnh của mùa đông
Tình yêu ta giống như cánh kiến và hoa vàng
Như chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về
Tình yêu như làm cho đất lạ trở thành quê hương”
Anh và em nắm tay nhau cuối mùa chiến dịch
Xôi gói nuôi quân, giấu trong rừng mỗi ngày
Đất Tây Bắc không biết đến lịch trình
Mùi hương xôi đầu vẫn đọng mãi trong ký ức”.
Tiếp theo theo dòng cảm xúc nhớ về nhân dân, tác giả chuyển hướng đột ngột sang nỗi nhớ đột ngột về người yêu. Hình ảnh đặc sắc như “như đông về nhớ rét” diễn đạt sự khắc sâu của tình cảm, giống như giá rét gắn bó với mùa đông, làm nổi bật giá trị quan trọng của mối quan hệ. Nỗi nhớ này dẫn tới suy ngẫm về tình yêu, so sánh với 'cánh kiến và hoa vàng', 'chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về'. Cánh kiến và hoa vàng, như tình yêu đôi lứa, gắn bó không thể tách rời; và chim rừng trắng bạch, giống như tình yêu, làm cho mùa xuân trở nên rực rỡ. Cuối cùng, từ nỗi nhớ và tình yêu, tác giả đưa ra triết lý: “Tình yêu làm cho đất lạ trở thành quê hương”. Tình yêu giúp đất lạ trở nên thân thuộc và quan trọng như quê hương.
Bốn khổ thơ cuối cùng là khúc hát về hành trình của nhà thơ.
“Là đất nước kêu gọi ta hay lòng ta kêu gọi?
Tình em đang chờ đợi, tình mẹ dang dở
Hãy cất cánh tàu ơi, đôi cánh hữu ích
Mắt tôi mong mái nhà đỏ bóng dài”
Khúc thơ thứ 13 bắt đầu bằng một câu hỏi tự đặt: “Là đất nước kêu gọi ta hay lòng ta kêu gọi?”, làm rõ rằng sự ra đi của nhà thơ đến từ cả sự kêu gọi của đất nước lẫn tình cảm trong lòng. Quyết định này chủ yếu bắt nguồn từ “Tình em đang chờ đợi, tình mẹ dang dở”, thể hiện sự mong đợi của nhân dân Tây Bắc và tình mẹ, tạo động lực cho sự vượt qua, “Hãy cất cánh tàu ơi, đôi cánh hữu ích”, là lời kêu gọi tàu hãy nhanh chóng đưa nhà thơ đến nơi. Mắt nhà thơ hướng về mái nhà “đỏ bóng dài”, mong muốn thấy đất nước phồn thịnh, mạnh mẽ.
Sau những lời thúc giục, nhà thơ đã chính thức bắt đầu hành trình, với tinh thần hứng khởi được thể hiện rõ trong khúc thơ thứ 13.
“Mắt tôi ghi nhớ khuôn mặt, tai tôi ghi nhớ âm thanh
Mùa nhân dân trổ bông lúa chín tươi rực
Rời bỏ quê nhà, nắm tay hướng tới
Đất đỏ ấm áp, mùi của cần lao nồng nàn”
Dùng cấu trúc điệp, thể hiện sức mạnh và tinh thần đoàn kết: “Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng/Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến”, hăng hái, nhiệt huyết lên đường. “Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào”, đất Tây Bắc phồn thịnh, náo nhiệt, “Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”, thể hiện sự hăng hái, sôi động của lao động.
Trong tinh thần lên Tây Bắc, tác giả quay về quá khứ và so sánh với hiện tại: “Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ/Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ/Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa/Nay trở về, ta lấy lại vàng ta”.
Những ngày “mười năm nhân dân máu đổ”, mười năm chiến tranh đầy khó khăn. “Vàng ta đau trong lửa”, giá trị của Tây Bắc bị đau đớn trong chiến tranh. Nhưng “nay trở về, ta lấy lại vàng ta”, khôi phục vẻ đẹp của Tây Bắc và tìm lại nguồn cảm hứng sáng tác.
Chân lý được nhận ra: “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả với vùng đất và nhân dân Tây Bắc.
“Lấy cả những giấc mơ! Ai nói rằng con tàu không thể mơ tưởng?
Mỗi đêm, khi khuya, không chỉ một vầng trăng
Lòng ta cũng như chiếc tàu, ta cũng say sưa
Ngắm mặt trăng của em bên suối trong mùa xuân”
Quay về Tây Bắc, đem về vàng và những ước mơ, niềm tin vào tương lai rạng ngời của dân tộc. Tác giả mô tả con tàu thưởng thức “vầng trăng”, tận hưởng vẻ đẹp của “mặt trăng của em bên suối trong mùa xuân”, biểu tượng cho sự say đắm trong vẻ đẹp của cuộc sống và của vùng đất Tây Bắc.
Tiếng hát của con tàu là bài thơ thể hiện niềm khao khát và hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, để tìm lại nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và cho hồn thơ của mình. Bài thơ tạo hình ảnh sáng tạo, đầy màu sắc và tinh tế, kết hợp trí tuệ và cảm xúc, mang lại cho độc giả những trải nghiệm thẩm mỹ đặc sắc của thơ Chế Lan Viên.
2. Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, mẫu số 2:
Chế Lan Viên, nhà thơ tài năng của văn hóa Việt hiện đại, đã trải qua nhiều biến động sáng tạo. Không còn bám vào thế giới u tối, ma mị của Điêu tàn, sau năm 1945, ông chuyển hướng sáng tác tập trung vào con người và đất nước trong thời kỳ kháng chiến. Thơ của Chế Lan Viên thể hiện sự trí tuệ và suy tư triết lý, với hình ảnh đa dạng, phong phú, và đầy sức sáng tạo.
Tiếng hát con tàu xuất phát từ tập Ánh sáng và phù sa, lấy cảm hứng từ sự kiện kinh tế - chính trị lớn: Vận động đồng bào miền xuôi xây dựng kinh tế Tây Bắc. Bài thơ là tác phẩm kết tinh giữa tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thi ca cách mạng.
Những câu thơ trong lời đề làm xao động tâm hồn, thể hiện rõ tư tưởng chủ đạo của tác phẩm:
“Tây Bắc ư? Có gì đặc biệt ở Tây Bắc
Khi tâm hồn ta đã hoá thành những con tàu
Khi Tổ quốc lan tỏa khắp nơi với giai điệu hùng vĩ
Tâm hồn ta chính là Tây Bắc, không còn nơi nào khác”
Câu hỏi nhẹ nhàng đặt ra: “Tây Bắc ư?”, là lời bày tỏ nỗi trăn trở, băn khoăn trước tình cảnh khó khăn của đất nước. Tiếng gọi của Tổ quốc vang vọng, tâm hồn Chế Lan Viên đã hoá những con tàu, không còn sợ khó khăn, vì trái tim ông đã hòa mình vào nhịp đập của Tổ quốc.
Hai khổ thơ đầu tiên thúc giục mạnh mẽ, ngôn từ tha thiết, những câu hỏi đang góp phần làm sâu sắc hơn trong tâm hồn tác giả và thế hệ văn nghệ sĩ nói chung:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang gọi gọi
Ngoài cửa ô? Tàu nhắc nhở về những vầng trăng sáng
Đất nước rộng lớn, cuộc sống anh nhỏ bé
Tàu kêu gọi anh, sao không ra đi?
Chẳng có thơ nào giữa những ngăn cản
Tâm hồn anh đang đợi chờ gặp anh ở phía bên kia”
Hình ảnh ẩn dụ của “con tàu” biểu tượng cho khát vọng, hoài bão to lớn đang tràn ngập trong lòng những triệu con người Việt Nam. Tiếng con tàu như lời kêu gọi mạnh mẽ, nồng nhiệt của Chế Lan Viên. Biện pháp tu từ nhân hoá “Tàu đói những vành trăng” biểu cảm, sinh động, “vành trăng” là hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình là biểu tượng cho ánh sáng, niềm tin và hi vọng đổ về tương lai rạng ngời. Động từ “đói” khiến người đọc suy ngẫm, đất nước đang cần sự đoàn kết, hy sinh để xây dựng Tổ quốc vững mạnh. Tây Bắc, địa danh xa xôi, hiểm trở, cũng là hình ảnh biểu tượng cho đất nước, là cội nguồn của bài thơ, của sự sáng tạo nghệ thuật dồi dào. “Đất nước rộng lớn, cuộc sống anh nhỏ bé”, đối lập thể hiện sự trăn trở, day dứt trong lòng độc giả. Chúng ta sống dưới sự che chở của thiên nhiên, bảo vệ của Tổ quốc, nhưng có khi nào ta nhìn lại và tự hỏi liệu mình đã đóng góp gì cho đất nước hay chỉ sống một cuộc đời vô nghĩa “lòng đóng khép” với thế sự ngoại kia.
Niềm hạnh phúc tràn ngập, niềm vui khi trở về quê hương được nhà thơ chân thành tái hiện trong chín khổ thơ tiếp theo, gợi lại những kỷ niệm kháng chiến:
“Tây Bắc! Mười năm anh hùng
Thiêng liêng rừng núi đất hồn ta
Máu rỏ thấm đất, dạt dào chín trái
… Anh nắm tay em cuối chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em trong rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày vô lịch
Bữa xôi nhớ mùi hương phôi pha.”
Con người và khung cảnh đã thay đổi, nhưng mười năm kháng chiến vẫn rực cháy trong tâm hồn tác giả. Lúc này, tâm hồn cần sự nghỉ ngơi, sự an ủi từ gia đình, để nhớ thương những năm tháng, “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”. “Mẹ” ở đây không chỉ là người đẻ, mà còn là mẹ thiên nhiên, mẹ Tổ quốc thân thương. Kỷ niệm Tây Bắc đậm sâu trong tâm trí tác giả, với hình ảnh “người anh du kích”, “thằng em liên lạc”, người mẹ tóc bạc, nhớ “bản sương giăng”, nhớ cả “đèo mây phủ”, hình ảnh cụ thể, giàu liên tưởng sâu sắc. Tình yêu thương, sự che chở của đồng bào tại đây là nguồn động viên mạnh mẽ cho những chiến sĩ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chế Lan Viên đã nhận ra một quy luật đặc biệt trong tâm hồn con người: “Ở đâu, đất chỉ là nơi ở/Đi xa, đất trở thành tâm hồn”. Ban đầu, khi đặt chân đến nơi mới, mọi thứ đều xa lạ, đất chỉ là nơi sống. Nhưng thời gian trôi, mảnh đất ấy trở nên quen thuộc, từng cỏ cây, dáng vẻ con người hiện hữu hằn sâu trong tâm trí, trở thành phần của tâm hồn. Sự biến đổi ấy xuất phát từ tình yêu, sự gắn bó và đồng cảm tâm hồn, biến đất lạ thành quê hương thứ hai.
Tình yêu trong thơ của Chế Lan Viên không chỉ là sự kết nối giữa hai con người, mà còn là đấu tranh và tình yêu thương cho đất nước, quê hương. Ký ức về em ngọt ngào như những đám mây trắng bồng bềnh, nồng nàn như hương hoa thiên lý. Nỗi nhớ cháy bỏng như lửa, kết nối chúng ta như những chiếc lá bám chặt vào cây. Tình yêu đã biến miền đất xa lạ thành ngôi nhà, quen thuộc và ấm áp như mái ấm gia đình, tình thân. Bằng bút pháp tinh tế, Chế Lan Viên vẽ nên bức tranh tình yêu đẹp đẽ, lãng mạn giữa con người và đất đai.
Tiếng gọi của Tổ quốc như là âm nhạc cao vang, kêu gọi người lính đồng lòng, không do dự bước ra chiến trường. Họ mang theo trọng trách lớn lao, đầy nhiệm vụ quan trọng, là biểu tượng sống của niềm tin, tình yêu quê hương. Chẳng có sự do dự hay suy nghĩ, chỉ có lòng dũng cảm và sự hy sinh cao quý. Như bài ca dao, tác giả tôn vinh vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi, và lòng trung hiếu bền vững trước khó khăn, giữ vững chí khí từ thuở sơ khai.
Bản hòa âm của Chế Lan Viên là một tác phẩm thi ca xuất sắc, để lại dấu ấn lớn trong thơ ca Việt Nam. Bức tranh thơ là niềm tâm huyết, lòng khao khát của tác giả trong hành trình xây dựng đất nước, mong muốn hòa mình vào đời sống cộng đồng, đồng cam cộng khổ. Hình ảnh con tàu đưa đến hy vọng, khát khao của Chế Lan Viên hướng về vùng đất Tây Bắc xa xôi, nơi mà chính là nơi tinh túy của nền văn hóa, nơi nuôi dưỡng tình thơ trong lòng tác giả.
""""--HẾT""""---
Sau khi chiêm nghiệm Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu, các bạn có thể bước vào thế giới sáng tạo với Sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu hoặc tìm hiểu thêm về Phân tích nghệ thuật trong bản Tuyên ngôn Độc lập để làm giàu kiến thức về các tác phẩm văn học này.