I. Đặt vấn đề
Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên được viết vào năm 1960 và xuất bản trong tập Ánh sáng và phù sa. Bối cảnh là miền Bắc sau những năm chiến tranh thành công, khi kinh tế bắt đầu phục hồi và bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Trong hoàn cảnh đặc biệt đó, nghệ sĩ đã hiểu rằng nghệ thuật cần phải kết nối với xã hội, tham gia vào việc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân. Họ tự nguyện đi đến những vùng miền khó khăn để hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, vì chỉ có như vậy mới có thể tìm lại niềm hạnh phúc và nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tiếng hát con tàu không chỉ đơn thuần là một bài thơ về sự kiện chính trị mà còn là sự thể hiện của tư tưởng động viên thanh niên đi xây dựng Tổ quốc. Bài thơ cũng là tấm lòng của những người có tình cảm sâu sắc với nhân dân, với đất nước. Lời mời gọi đi lên Tây Bắc trở thành lời kêu gọi, lời mời gọi cho những tâm hồn đến với cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Từ một vấn đề chính trị, bài thơ đã mở ra những tư tưởng về cuộc sống, về nghệ thuật.
Nhan đề “Tiếng hát con tàu” của bài thơ mang tính biểu tượng bởi thực tế chưa có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Hình tượng con tàu trong bốn câu thơ mở đầu là biểu tượng cho lòng khao khát của nhà thơ muốn ra đi, vượt ra khỏi cuộc sống hẹp hòi, tìm đến với cuộc sống rộng lớn. Tây Bắc không chỉ là một địa danh mà còn là biểu tượng của cuộc sống lớn của nhân dân và đất nước, là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Nhà thơ nói với người khác và cũng là tự nhủ với lòng mình. Cuộc kháng chiến đã kết thúc thắng lợi, đất nước đang trong giai đoạn tái thiết, xây dựng cuộc sống mới cần sự đóng góp của mỗi người. Cuộc sống lớn đó là nguồn cảm hứng cho mọi sáng tạo nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật không thể nảy sinh nếu người nghệ sĩ không mở lòng đón nhận mọi cảm xúc của cuộc sống. Từ việc suy ngẫm về cuộc sống của mình, Chế Lan Viên đã đưa ra lời khuyên đầy tâm huyết: hãy ra khỏi tâm hồn chật hẹp để hòa mình với mọi người, hãy vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé để đến với tất cả. Theo con đường ấy, có thể tìm thấy nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hồn của mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân:
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ của Chế Lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tưởng, khao khát ra đi, hăm hở, háo hức trong hành trình trở về với cuộc sống rộng lớn, với nhân dân. Khao khát đến với cuộc sống rộng lớn, đến với nhân dân trở thành cảm hứng, tình cảm chân thành của nhà thơ. Khao khát ấy đã một lần vang lên trong bài thơ ông:
Ôi chim én có bay không, chim én ?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ .
Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, lòng khao khát ra đi được thể hiện rõ hơn, sâu sắc hơn qua những dòng thơ: “Khi lòng ta đã biến thành những chiếc tàu”, “Tàu ơi, hãy đưa ta bay về nơi mái nhà ấm cúng. Mắt ta nhớ thương mặt người, tai ta nghe rõ tiếng nói”... Khao khát ấy trở nên mãnh liệt hơn khi gặp gỡ giữa nhu cầu của nhân dân, của đất nước với tình cảm của nhà thơ “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi”. Ở đây, tiếng gọi của cuộc sống, của nhân dân và đất nước đã thực sự trở thành sức mạnh động viên bên trong tâm hồn của nhà thơ.
Có người từng nói: “Ra đi cũng là trở về”. Việc đi lên Tây Bắc cũng là cách để nhà thơ trở về với mảnh đất anh hùng, nơi ông từng gắn bó với cuộc sống, để chứng kiến những thành tựu đầu tiên của cách mạng:
Trên Tây Bắc đã mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã từng anh hùng
Nơi máu của tâm hồn đã ngấm sâu vào đất
Bây giờ là thời khắc chín trái đầu tiên của xuân
Máu đã chảy xuống, và cây đã mọc lên, đơm hoa kết trái. Hai dòng thơ trái ngược cho thấy sức sống mãnh liệt của miền Tây Bắc: từ sự chết, sự sống vẫn nảy mầm. Động từ “rỏ” không gây ấn tượng mạnh mẽ nhưng lại có sức ảnh hưởng sâu sắc trong lòng người đọc. Máu “rỏ” chứ không phải là máu chảy nhiều. Điều này cho thấy sự hi sinh kiên trì, lâu dài của người dân Tây Bắc và của người Việt Nam nói chung. Mất mát và hi sinh là lớn nhưng không đủ sức để làm chết ý chí và khao khát. Chỉ cần giữ vững niềm tin vào cuộc sống, cuộc sống này vẫn đáng sống và nó sẽ tiếp tục thúc đẩy con người với khát vọng cống hiến.
Trong Tiếng hát con tàu, niềm khao khát mãnh liệt và hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân được thể hiện rõ:
Gặp lại nhân dân hư nai quay về với suối xưa
Cỏ mọc xanh bên giếng, chim én hòa với mùa
Như đứa trẻ thơ khát khao gặp mẹ sữa
Chiếc nôi bỗng ngừng, gặp đôi tay ôm ấp
Để diễn tả niềm hạnh phúc to lớn đó, tác giả liên tục sử dụng những hình ảnh so sánh. Những hình ảnh này không chỉ đẹp mắt và lãng mạn: “nai trở về nguồn, cỏ mọc xanh quanh giếng, chim én đón mùa”, mà còn phản ánh sự phù hợp giữa nguyện vọng và hiện thực: “trẻ thơ như đang khát khao gặp mẹ sữa, chiếc nôi đột ngột dừng lại, ôm nhận đôi tay che chở” nhấn mạnh sự hạnh phúc lên đỉnh và ý nghĩa sâu xa của việc quay về với nhân dân. Đối với nhà thơ, trở về với nhân dân không chỉ là niềm vui và khao khát, mà còn là một điều tự nhiên, phản ánh đúng qui luật. Trở về với nhân dân là trở về với nguồn cảm hứng bất tận của cuộc sống, trở về với những gì thân thuộc và sâu đậm trong lòng.
Khao khát quay về với nhân dân được tác giả thể hiện qua những cảm xúc chân thành, những tình cảm cụ thể, những kỷ niệm sâu sắc gắn liền với những người biểu tượng cho sự hy sinh, che chở của nhân dân trong thời kỳ kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm trừu tượng mà hiện ra qua những hình ảnh, những người thực tế, gần gũi, đầy lòng biết ơn. Nhân dân, họ là “anh em, người anh du kích” với “chiếc áo nâu anh mặc tại trận, chiếc áo nâu vẫn nguyên vẹn dù đã vá rách suốt một đời, đêm cuối cùng anh trao lại cho em”; họ là “em con thằng em liên lạc, Rừng trống trải, rừng già em chờ đợi”; họ là bà mẹ già “ngọn lửa chiếu soi mái tóc bạc, Năm đứa con đau mẹ thức trắng suốt mùa dài”… Với những lời gọi là “con nhớ anh, con nhớ em, con nhớ mẹ”… bài thơ chất chứa, rất nhiều những kỷ niệm được gọi lên từ những nỗi nhớ về nhân dân của tác giả. Cách gọi tên của người tác giả, ngôn từ trữ tình thể hiện một tình cảm thân thiết, sâu sắc, với những người đã từng chia sẻ gắn bó mật thiết trong những năm tháng kháng chiến. Đọc những dòng thơ này, có thể cảm nhận được những rung động, sâu sắc, đầy cảm hứng của một tâm hồn thơ trong những khoảnh khắc giác ngộ về cuộc sống và cũng là về nghệ thuật: phải trở về, chăm sóc, gắn bó với nhân dân. Tổ quốc và nhân dân đã hồi sinh lại cho một tâm hồn thơ từng bước giải thoát khỏi sự đóng khép trong bản thân.
Nhớ bản sương trăng, nhớ đèo mây che phủ
Bất kể đi đâu, lòng vẫn không hoang mang
Khi ta ở, chỉ là nơi cất nhà
Khi ta rời đi, đất đã chứng kiến tâm hồn !
Anh lại nhớ em như đông về, nhớ rét giá
Tình yêu chúng ta như cánh hoa kiến vàng
Như xuân về chim rừng lông đã đổi màu
Tình yêu làm quê hương trở nên lạ thường.
Khổ thơ là trái tim của nhà thơ mở rộng theo những nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy đong đầy trong tâm trí nhà thơ. Đó là kỷ niệm về những bản làng mơ mộng dưới lớp sương mù, những đèo cao che phủ bằng mây. Nhà thơ đã đi qua nhiều nơi, nhưng không nơi nào không đọng lại trong lòng những kí ức và nỗi nhớ. Khi ở đó chỉ là nơi có nhà, khi rời đi đất đã ghi nhận tâm hồn.
Talking about love in reminiscence, Chế Lan Viên's verses sparkle with vibrant colors, pulsating with emotions. Chế Lan Viên has depicted in a humorous, unique, and profound way the close relationship, the tight bond between lovers. But love here does not stop at the boundary of romantic love, but also encompasses the deep feelings for the homeland. Speaking of love, but aiming for dissection, explanation, illuminating the entire passage of poetry. Chế Lan Viên has mentioned the miracle of love. It is love itself that transforms strange lands into familiar ones like our homeland, turning into the flesh and blood of our souls. The verses are deeply philosophical, but these philosophies are derived from emotions, from sincere feelings, so they are not dry, still natural and plain. These are the best verses of Chế Lan Viên's poetry.
III . CONCLUSION
The song of the boat is a wonderful poem by Chế Lan Viên that contributes to beautifying the poetry section about the construction of socialism. The poem reflects a new perspective of the poet towards life, towards people. But perhaps what is condensed in the work are the thoughts imbued with deep philosophical colors, deeply ingrained in the readers' souls, stirring before the poet's emotional attachment to the people, to the country. And precisely for that reason, each person has their own perception to find their way to immerse themselves into a new life, to live in sincere emotions like those of the poet.