Bài thơ có cấu trúc phức tạp với 22 câu thơ lục bát kết hợp với 18 câu thơ thất ngôn. Sự xen kẽ và phối hợp giữa các khổ thơ lục bát và thất ngôn nhằm tôn vinh tâm hồn của những chiến sĩ cách mạng qua những chặng đường gian khổ đi đày.
Tiếng hát đi đày
Đường dẫn qua nhiều con phố ở Quy Nhơn
Mỗi lần nhìn nhà, lòng lại yêu thương hơn
………………..
Núi ơi, từ đỉnh này xuống đáy kia
Có bao nhiêu dặm, qua bao đêm dài?
Tháng giêng năm 1942
Tố Hữu là một nhà thơ vĩ đại của thời đại chúng ta. Đối với ông, con đường của cách mạng cũng là con đường của thơ. Trong bài viết 'Đảng và thơ' vào năm 1987, ông viết:
'Đầy 50 năm: Đảng và thơ
Từ đó, niềm vui mãi mãi hiện diện'.
'Từ đó' là từ năm 1937, khi Tố Hữu nhận ra sự thật của cuộc sống. Và cũng là 'Từ đó' - tiếng hát của thanh niên cộng sản vang lên như tiếng chim cà-lơi hót vang: 'Say đồng bào nắng ấm hát ca - Trên chín tầng cao bát ngát bầu trời' (Nhớ về quê hương).
Cuối tháng 4 năm 1939, Tố Hữu bị tình báo Pháp bắt giữ. Ông trải qua nhiều nơi giam giữ: lao Thừa Thiên, nhà tù Lao Bảo, ngục Ban Mê Thuật, và đến tháng Giêng năm 1942, nhà thơ cách mạng trẻ bị đày lên nhà tù Đắc Lay ở vùng núi Tây Nguyên sâu thẳm. Bài thơ 'Tiếng hát đi đày' được viết trong những ngày khổ cực đó. 'Tiếng hát đi đày' là bài thơ cuối cùng trong phần 'Gông xiềng' của tập thơ 'Từ đó', tập thơ đầu tiên của Tố Hữu.
Trên con đường đi đày đầy gian khổ, bị còng sống, bị xiềng xích, lòng uất hận dâng cao, những chiến sĩ cộng sản trẻ vẫn hát lên ca ngợi lý tưởng cách mạng, kiên định và dũng cảm, mong một ngày sẽ phá tan những cái gông xiềng. Tựa đề 'Tiếng hát đi đày” thể hiện một tâm trạng đẹp đẽ ghi lại tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng trên hành trình đi đày từ thành phố Quy Nhơn lên núi Đắc Lay.
Bài thơ có cấu trúc phức tạp với 22 câu thơ lục bát kết hợp với 18 câu thơ thất ngôn. Sự xen kẽ và phối hợp giữa các khổ thơ lục bát và thất ngôn 2 câu, 8 câu hoặc 4 câu nhằm mô tả và làm nổi bật những cảm xúc của những người chiến sĩ cách mạng trên mỗi bước đi đày. Giọng điệu thơ cũng thay đổi, đa dạng và phong phú.
Trải qua chặng đường khó khăn đầu tiên 'Đường qua mấy phố Quy Nhơn'.
Trong tập thơ 'Từ đó', chúng ta biết vào tháng 6 - 1941, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giữ tại nhà tù Quy Nhơn, . Và tháng Giêng năm 1942, tức tháng Chạp năm Tân Tỵ, ông bị giam giữ tại nhà tù Đắc Lay. Huỳnh Ngọc Huệ, một chiến sĩ cộng sản, cũng bị bắt và đi đày cùng với ông. Bài thơ mở đầu bằng 4 câu lục bát miêu tả việc nhìn thấy phố Quy Nhơn qua cửa sổ của chiếc xe tù lao đi. Bằng cảnh quan, bằng con người, người đi đày cảm nhận được sự yêu thương, sự lưu luyến đặc biệt với những ngày trước Tết. Hình ảnh phố phường trong những ngày cuối năm, với sự sôi động của con người được diễn tả qua cặp câu 'quấn áo//chen chân' để lại trong lòng người đi đày nhiều hoài niệm, nỗi buồn và cảm xúc, cảnh vật và con người nơi phố Quy Nhơn đột nhiên trở nên gần gũi, 'quen thêm”, thân thuộc hơn. Hai câu hỏi nhẹ nhàng tiếp tục xuất hiện: 'Nhà sao... Ư sao...?', thể hiện sự bất ngờ, xúc động, biểu hiện sự yêu mến, đam mê vô hạn với cuộc sống tự do và nhịp sống đời thường:
Đường xa qua phố Quy Nhơn
Nhà thì trông cứ thêm thân thuộc hơn
Người đi giày vẫn chen chân
Ồ, sao lại như đã quen từ lâu thế?
Bên ngoài, phố phường đông đúc, sôi động. Nhà thơ dần dần bị tách biệt khỏi cộng đồng của mình, những con phố yêu thương quen thuộc. Trước mắt là những khó khăn, gian truân, nước mắt và máu mà người đi đày sẽ phải đối mặt. Trong hoàn cảnh đó, lòng người không thể không cảm thấy cô đơn và mong mỏi tự do. Sau hai câu lục bát đơn thoại, là hai câu thất ngôn tương tác với 'xe ơi...“. Đó là tiếng hát của những người đi đày, tiếng hát tràn đầy lưu luyến và khát khao. Giọng thơ như là một lời thầm thì nhẹ nhàng nói lên:
'Xe ơi, hãy dừng chầm lại một chút
Còn đây, lòng lại khát khao!'
Những người chiến sĩ cách mạng đã cam kết đấu tranh cùng mọi người, yêu thương với nhiều con đường, trở thành người con của muôn nhà, em của muôn kiếp, anh của muôn đầu em nhỏ... để lời thầm thì và khao khát không ngừng vang vọng.
Từ cảm xúc 'yêu hơn' và “quen thân' trong câu lục bát, cảm xúc 'khát khao' như bị kìm nén khi chuyển sang câu thất ngôn. Thành phố Quy Nhơn dần xa lạ, mờ mịt.
Bốn câu lục bát tiếp theo kể về hành trình đi đày tiếp theo. Xe tù lao nhanh về phía Tây Nguyên. Những ngôi nhà 'lơ thơ' xuất hiện lẻ loi. Cảnh vật hoang vắng dần trở nên rõ ràng. Không có người, chỉ thấy 'bóng vẩn vơ trên đường'. 'Mấy bóng vẩn vơ” đi lại lẻ loi, buồn bã. Ánh nắng chiều nhạt nhòa trên ruộng, tiếng hót của chim bơ vơ - lạc lõng, xa cách, buồn bã, gợi nhớ về quê hương, về màu xanh của ruộng lúa, những kỷ niệm đong đầy trong tâm trí. Bức tranh miền núi hoang vắng và cô đơn. 'Tiếng hát đi đày' là biểu tượng của sự nhớ nhà,
'Nhưng nhà đã lạc lõng trên đường
Người đi một mình dưới ánh nắng.
Ruộng xanh gợi nhớ quê hương,
Tiếng hát lẻ loi trên nương chiều tà.”
Các từ miêu tả và hình tượng gắn kết, hòa quyện với nhau: 'một mình - 'lẻ loi' - 'lẻ lời”, các âm vần: 'nắng', 'hương', 'tà' liên kết với nhau, tạo ra giai điệu buồn thảm đượm vào lòng người bao nỗi lo âu. Từ 'gợn' trong câu 'Ruộng xanh gợn nhớ quê hương' là một nét vẽ sâu sắc, hình ảnh và truyền cảm. Màu xanh của ruộng nương, sông lúa, biển lúa sóng nước, gợi lên kỷ niệm về quê hương trong tâm trí người đi đày. 'Sóng' thể hiện cảm xúc nhớ nhà, như thế.
'Sóng vỗ bên sông chảy bồi hồi''.
(Tràng giang – Huy Cận)
Một lần nữa, cặp câu thất ngôn xuất hiện. Quy Nhơn đã 'xa rồi', ruộng xanh và quê hương cũng 'xa rồi'. Chỉ còn nghe tiếng hát lẻ loi trên nương nắng chiều. Đâu còn 'bóng dáng yêu thương cũ', màu xanh của lúa, còn đâu 'người đi quấn áo chen chân”. Chiếc xe tù tiếp tục lăn bánh vào rừng núi sâu thẳm, người đi đày như bị bao bọc bởi 'ngàn xa' buồn thê lương, màu sắc 'nhạt nhạt', thấm vào lòng nỗi buồn cô đơn và hoang vắng:
'Xa rồi bóng dáng yêu thương cũ
Nhạt nhạt ngàn xa buồn cô đơn'.
Phản ứng với âm tiết 'xa rồi' là tiếng vang 'nhạt nhạt', giọng thơ rơi xuống, tiếp theo 5 âm tiết 'ngàn xa buồn cô đơn' âm điệu biến chuyển, mơ màng, giai điệu 'buồn cô đơn” vương vấn vào lòng người, lan tỏa trên con đường khó khăn vô tận.
Phần thứ ba của hành trình đi đày là 'Đường lên vùng đất Kông Tum', được ghi lại bằng 4 câu thơ lục bát. Hai từ 'đường lên' mô tả con đường đi đày ngày càng cao: đèo kế tiếp đèo, dốc kế tiếp dốc, núi kế tiếp núi. 'Xứ lạ' chỉ Kông Tum, một vùng đất thiên nhiên hùng vĩ và nguy hiểm.
'Quanh quanh đèo chật//trùng trùng núi cao'.
Các con đèo uốn khúc, chật hẹp, xoắn quanh những dốc núi. Núi cao vút trời. Kông Tum với những con đèo vòng quanh, những ngọn núi cao chót vót, như những thử thách nghiêm trọng với người chiến sĩ cách mạng trẻ. Mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 'xứ lạ', tai lắng nghe tiếng nhạc của rừng. Trong khó khăn, nhà thơ vẫn mô tả âm thanh của 'reo', dòng suối chảy, tiếng hót của chim 'chiu chít'. Người chiến sĩ cách mạng vượt qua cảnh khó khăn, tận hưởng vẻ đẹp tự nhiên, để 'trong cô đơn của con đường xa, có chút an ủi'.
'Thông reo bờ suối rì rào,
Chim chiều chiu chít, ai kêu ai?'
Sự cảm hứng từ thiên nhiên tươi đẹp kết hợp với cảm hứng của sự tự do. Những ngọn núi hùng vĩ, âm nhạc của rừng kỳ diệu với tiếng 'reo' của thông, tiếng suối 'rì rào', tiếng chim hót “chiu chít'. Dù bị xiềng xích, buộc buộc, bị giam trong chiếc xe tù chật chội, nhưng nhà thơ vẫn 'Tự do lãm thưởng vô nhân cấm', vẫn yêu cuộc sống, yêu cuộc sống mãnh liệt, kiên cường. Tinh thần thơ tràn đầy khi ngắm nhìn 'xứ lạ Kông Tum là âm nhạc của hành trình đi đày. Ngòi bút của nhà thơ rất tài hoa và tinh tế trong việc sử dụng các từ tượng hình (quanh quanh, trùng trùng), từ tượng thanh (rì rào, chiu chít); đặc biệt tinh tế khi sử dụng các từ phong phú về âm điệu, giàu về âm thanh, với các phụ âm 'r' (reo, rì rào), phụ âm 'ch” (chim, chiều, chiu, chắt) để tạo nên những câu thơ với âm điệu, nhạc điệu du dương, trầm bổng, đọc lên nghe rất thú vị. Khúc nhạc của suối rừng Kông Tum với tiếng thông 'reo', dòng suối hát, tiếng chim kêu mang lại nhiều cảm xúc cho người chiến sĩ đi đày. Cảnh đẹp ấy dành cho ai, âm thanh ấy dành cho ai? Câu hỏi nhẹ nhàng: 'ai nào kêu ai' mang đầy nỗi lòng.
'Muốn gầm một tiếng tan u uất
Hận bỗng tuôn theo gió thổi dài'.
Con đường đi đày dường như vô tận, mỗi bước đi lại cao hơn, đầy dốc, đồi, nhiều vách đá, thác nước, có cửa ải, trạm canh. Đây là chặng thứ tư của hành trình đi đày;
'Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao
Đèo dốc thác cao, cầu treo giữa vách đá
Quanh quẩn mấy cửa ải, trạm canh
Lòng đau lại nhớ đến các anh, những ngày...'
Tiếp theo là 'Đường lên xứ lạ Kông Tum' là 'Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao” chặng đường đầy khổ sở, ngày một lên cao... lên cao không ngừng. Cảnh núi đèo vô cùng nguy hiểm, hùng vĩ. Con đèo quanh co cao vút được mô phỏng thành 'Đèo treo một ghềnh'. Câu thơ có hai vế tương phản, miêu tả đèo và thác, miêu tả cầu và ghềnh là những nét vẽ uy nghi, đầy ấn tượng. Các từ 'đèo- leo- treo' vần với nhau (vần lưng) tạo nên câu thơ phong phú, thiên nhiên vừa uy nghi vừa trữ tình nên thơ: 'Đèo dốc thác cao, cầu treo giữa vách đá'.
Nhìn núi đèo cao vút, ngắm thác ghềnh thăm thẳm hoang vu, lòng nhà thơ đau đớn co lại 'nhớ đến các anh', nhớ những chiến sĩ cách mạng tiền bối từng bị thực dân Pháp giam giữ trước đó. Hai từ 'quanh quẩn' miêu tả cảnh hoang vắng, buồn, yên bình.
Tiếng thơ, tâm trạng thơ dường như bị kìm nén trong 'nỗi đau' bỗng trào lên mạnh mẽ, đầy uất hận căm phẫn. Đường đi đày được mô tả trong bài thơ là con đường số 14. Con đường này được xây dựng bằng mồ hôi, xương máu của dân tộc ta. Hàng nghìn chiến sĩ cách mạng đã phải chịu đựng, lao động khổ cực, hoặc thậm chí hy sinh trên con đường này. Tố Hữu đã thể hiện cảm xúc đau đớn, căm phẫn qua một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật rất đầy cảm hứng:
'Chao ôi, xưa cũng chốn này đây
Thân hữu vùi xương dưới gốc cây
Roi vụt đau rát tay bọn lính áp bức
Máu đỏ mắt lũ giặc đồn Tây!
Mỗi tảng đá ấy, chứa đựng bao huyết lệ
Một đoạn cầu này, thấm đẫm bao nhiêu nỗi đau!
Hỡi những anh đã đi trước
Có biết rằng còn nhiều bạn đi đày không?”
Hai tiếng 'Chao ôi' vang lên như lời than thương, tiếc nuối những anh hùng cách mạng bị giam cầm, bị kẻ thù tàn sát dã man.
Câu thơ, vần thơ được gợi lên như 'xương', như ”máu', như 'hòn huyết', như 'khúc thây'... Phép đối trong bài thơ Đường được sử dụng đặc biệt để chỉ trích tội ác 'roi vụt rát tay' của bầy lính rợ, cái 'khoái mắt' của lũ đồn Tây trước cảnh 'máu dầm' của đồng bào ta, chiến sĩ ta.
Sự hy sinh của những anh hùng cách mạng thật không thể nào diễn tả hết. Có bao nhiêu máu đổ, xương tan ra. Con đường đi đày là con đường máu, tiếng hát đi đày là tiếng hát căm hận sôi sục:
'Mỗi tảng đá ấy, chứa đựng bao huyết lệ
Một đoạn cầu này, thấm đẫm bao nhiêu nỗi đau”
Con đường đi đày như kéo dài vô tận, những anh hùng cách mạng, người trước gục, người sau tiến lên, không sợ hy sinh... Con đường tự do 'còn lắm bạn đi đày'...
Đây là phần năm của cuộc hành trình đầy khó khăn đi đày.
Lần thứ ba, hai từ 'Đường lên' được lặp lại, để lại ấn tượng về con đường đi đày ngày càng cao, xa xôi: 'Đường lên xứ lạ Kông Turn... Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao... Đường lên đỉnh núi Đắc Lay...' Đỉnh núi cao vút, hoang vắng, lạnh lẽo: 'Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim', Một tiếng gà 'gáy động”, đỉnh núi Đắc Lay chìm trong màn sương 'im lìm' vắng lặng! Những mái nhà tranh thấp thoáng 'mơ mơ' như lẫn vào, chìm vào trong mây. Lấy gió để tả 'lạnh', lấy sương dày để tả ''vắng chim', mượn tiếng gà gáy để tả cảnh núi 'im lìm', lấy mái nhà tranh để tả mây... Nét vẽ mờ ảo, hoang vắng, lấy động để tả tĩnh, cái 'im lìm' của đỉnh núi Đắc Lay như hiện mờ trong sương núi:
'Con đường dẫn lên đỉnh núi Đắc Lay
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
Gà đâu gáy động im lìm
Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây
Đồn xa héo hắt cờ bay
Hiu hiu phất lại buồn vây vây lòng”
Một chuỗi từ láy, vần tiếng: 'heo heo', 'im lìm', 'hiu hiu’’, vần: im lìm, âm tiếng: héo hắt - gợi lên bầu không khí hoang vu của núi rừng, cảm giác lạnh lẽo và buồn bã từ cảnh vật đọng sâu trong lòng người đi đày. Hình ảnh lá cờ ba sắc của quân xâm lược trên 'đồn xa” là biểu tượng của sự tàn phá, lụi tàn, trông vừa 'héo hắt' vừa 'hiu hiu' làm cho nỗi buồn bao trùm lòng người đi đày. Nhìn về đồn Tây, nhìn lá cờ ba sắc 'héo hắt', nổi lên sự căm phẫn, nhà thơ tự hỏi 'ai' hay tự hỏi về bản thân, tự đo lường bản lĩnh, rồi nhìn về 'núi sương' mênh mông bao la:
'Có ai hiểu nỗi hờn ghê gớm
Trông về núi sương trên ánh mắt người.
Sự khao khát tự do bùng cháy mãnh liệt. Nội tâm ấp ủ một quyết tâm, một hành động liều lĩnh. Lời độc thoại phản ánh một tinh thần dũng cảm. Khao khát tự do của người lính trẻ trên con đường lưu đày. Phải phá tan những giam cầm, phải hành động để giành lại tự do. Núi ơi, tính toán dặm đường, đêm dài... là đo lường lòng can đảm. Kế hoạch vượt ngục đã được lập trình, được âm mưu, được diễn tả qua những câu thơ sôi nổi:
'Núi ơi! Từ đây tới chốn kia
Tính bao nhiêu dặm, đêm dài bao nhiêu”
Và chỉ sau ba tháng, vào tháng 3 năm 1942, Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ đã thành công trong việc vượt ngục. Ba mươi mốt năm sau (1942 - 1973), trong bài thơ 'Nước non ngàn dặm'', Tố Hữu nhắc lại 'con đường máu' đi đày năm xưa như một kỷ niệm của tuổi thanh xuân:
'Vượt ngục xưa, bước chông gai,
Dòng nước ấy, nằm say treo trên cành
Lá lau, rau má, cỏ xanh.
Khát khao, hò hát, đoàn hành vẫn hân hoan...'
Cảm hứng từ 'Tiếng hát đi đày” chứa đựng tinh thần trữ tình của thiên nhiên kết hợp với mong muốn tự do. Tinh thần của nhà thơ hòa quyện với ý chí của chiến sĩ. Con đường đi đày với những phần 'lên cao', vượt lên cao nguyên, cuối cùng đến núi Đắc Lay là một con đường máu, với nhiều thách thức và gian khổ.
Sự kết hợp khéo léo giữa thể thơ lục bát và thất ngôn, việc sử dụng từ ngữ và kỹ thuật gieo vần đã thể hiện một cách chân thực, cảm động và kiêu hùng tâm trạng và ý chí của những người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Có những tâm trạng buồn 'bao trùm lòng”, có những khoảnh khắc hoài niệm về quê hương và mảnh đất yêu dấu, có 'nỗi oán hận không tưởng”. Bài thơ toát lên khát vọng tự do, là biểu tượng của một tinh thần mật thiết với đất nước.
'Tiếng hát đi đày' là một bản tình ca của tự do, nó phá hủy những ràng buộc để đạt được 'giải phóng'. Hành trình đi đày là một đo lường cho tinh thần và ý chí của những chiến sĩ cộng sản. Nó giúp chúng ta, thế hệ ngày nay hiểu rõ hơn về giá trị của tự do mà tổ tiên đã chiến đấu và hy sinh để đạt được, cũng như nhấn mạnh hơn về quan điểm 'biết ơn gốc rễ'...
Điểm đến của bạn