Trong đêm mưa, không gian được hồi sinh trong tâm trí
Sự sáng tạo trong việc viết thơ của Huy Cận tập trung vào cái đẹp của không gian. Vào những thời kỳ quá khứ, ánh mắt của nhà thơ cũng đã chú ý đến điều này:
Những dải núi uốn cong xung quanh được mênh mông trong trí óc
Lưng núi che kín, mưa đổ như trút
Gió hút mây trôi theo dòng vàng
Một bầu trời thu mênh mông với những đám mây cao...
Khi đặt trái tim vào nỗi buồn, Huy Cận cũng đặt nó vào không gian:
Vạn dặm nỗi buồn vươn lên núi, gặp gỡ với mây.
(Biển tình vô tận)
Khi hát về giai điệu của tình yêu, Huy Cận cũng để âm nhạc của không gian trở thành nền đệm:
Em ngủ đi, giấc mơ bình yên
Ngủ say trong tiếng sóng biển êm đềm...
(Lòng buồn)
Thế giới của Huy Cận là thế giới của '... nỗi buồn không gian. Những đám mây lững lờ đọng lại như tấm màn u ám...” (Thu rừng). Trong thế giới đó, thời gian ngừng lại, yên bình chuyển hóa thành trạng thái tĩnh lặng, trở thành một phần của không gian.
Sự cảm nhận đặc biệt này được thể hiện rõ trong bài thơ Tràng giang. Đó là giai điệu của tình yêu trong Một linh hồn nhỏ, mang theo nỗi buồn về cổ tích.
Tràng giang là một bức tranh phong cảnh. Phong cảnh của Tràng giang không rực rỡ màu sắc. Tuy vậy, cũng có những câu thơ đề cập đến màu sắc:
Bờ sông êm đềm nối liền bãi cát vàng.
Màu sắc mờ nhạt. Phong cảnh với màu sắc mờ nhạt của Huy Cận khiến người đọc liên tưởng đến không gian trong thơ của Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hiện đại này cũng đã sử dụng những gam màu lạnh, nhạt để tô điểm cho bức tranh phong cảnh của mình:
Mấy chùm hoa năm ngoái trước dậu.
Âm thanh của quá khứ. Phong cảnh Tràng giang không phát ra tiếng ồn ào. Tuy vậy, cũng có những câu thơ nói về âm thanh:
Từ làng xa vọng tiếng chợ chiều.
Tiếng vọng xa vời, mơ màng. Không gian yên lặng này cũng gợi nhớ về Nguyễn Khuyến:
Một tiếng hát trên bầu trời nước nào.
Âm thanh tồn tại nhưng cũng giống như không tồn tại, mang theo sự biểu đạt của sự vô thực.
Phong cảnh Tràng giang yên bình. Tuy vậy, cũng có những câu thơ diễn tả sự sống động:
Sóng vỗ trên dòng Tràng giang êm đềm...
Một cành cây khô bất động giữa dòng nước...
Bèo trôi về đâu, xen lẫn hàng dọc hàng...
Chim nhỏ nghiêng cánh, bóng chiều phủ...
Sự chuyển động yên lặng. Người đọc cảm nhận sự yên bình của không gian, như trong thơ của Nguyễn Khuyến. Đó cũng là một không gian trầm lặng:
Cá dưới dòng nước đuối ngoan dưới bèo.
Tương tự như Nguyễn Khuyến, Huy Cận đã đưa vào không gian những chuyển động nhẹ nhàng để làm tăng thêm sự yên bình của nó. Cả hai nhà thơ đã sử dụng sự hiện hữu để diễn đạt sự vô hình.
Nhờ những dấu hiệu thẩm mỹ trong không gian mà họ nhận được, người đọc có thể thấy rằng nhà thơ mới Huy Cận đã tiếp nối truyền thống thi cảm, và nếu chấp nhận rằng thi cảm của Nguyễn Khuyến đại diện cho truyền thống đó.
Tuy nhiên, thi cảm của Huy Cận cũng là một sự ngắt quãng. Do đó, Huy Cận đã trong trải nghiệm sự sáng tạo thơ của mình, kết hợp giữa sự liên tục và sự gián đoạn. Đó mới là sự cách tân thực sự. Có bao nhiêu bước nhảy cao không dựa vào mặt đất, sau đó lại trở lại với mặt đất!
Không gian của Nguyễn Khuyến là một cảnh quan làng quê nhỏ bé: một cái ao thu mát mẻ với nước trong veo, những con đường trúc uốn khúc, làng quê Bắc Bộ truyền thống kín đáo sau những hàng tre già. Cuộc sống của con người chỉ diễn ra yên bình trong cái khung cảnh hẹp nhỏ ấy.
Huy Cận đến với không gian truyền thống, nhưng mở ra cái không gian ấy ra ba chiều, không giới hạn:
Nắng rọi xuống từ trên cao chói chang
Dòng sông dài, bến cỏ mênh mang.
Huy Cận đã đưa không gian làng quê lên tầm vũ trụ. Không gian đó bao la nhưng không phải là vô cùng vì nó được xác định bởi ba chiều (cao, rộng, dài). Đó là không gian trong những bức tranh Phục hưng của phương Tây - một không gian vật lý cổ điển.
Như vậy, nhà thơ Huy Cận đã kết hợp sinh hóa văn hóa châu Âu bằng một quá trình đồng hóa. Trong thẩm mỹ không gian của thơ Huy Cận, có cả yếu tố Đông và yếu tố Tây. Chúng đã hòa quyện trong cùng một cảm hứng sáng tạo thẩm mỹ của Huy Cận.
Huy Cận đã đến với Thơ mới để chứng minh sự hấp thụ văn hóa, văn học châu Âu xa lạ đã hoàn tất. Những sóng biển xa xô bờ đã đánh về bờ biển Thái Bình Dương trong thế giới thơ của Việt Nam, mà Huy Cận là một phần. Vì vậy có thể nói: có một chút phương Tây trong thơ Việt Nam hiện đại trước và qua Huy Cận.
Sự kết hợp với phương Tây, như chú A.Q của Lỗ Tấn đã nói - cái Tây giả trong thơ mới ban đầu đã bị Huy Cận xoá bỏ hoàn toàn. Lúc đó chỉ còn lại một yếu tố Đông thuần khiết nhưng không phải là cổ truyền, một phẩm chất dân tộc bước vào thế giới mở rộng.
Người đọc càng cảm nhận điều kỳ diệu đó qua tinh thần thơ của Huy Cận trong Tràng giang. Đó là một tinh thần thơ mở rộng từ thời kỳ Đường vượt ra ngoài ranh giới phương Đông.
Người đọc sẽ dựa vào phong cảnh Tràng giang để chìm vào tâm hồn của Huy Cận. Điều này đã được Nguyễn Du phê phán: Trong nỗi buồn, không có niềm vui nào cả, và cũng đã được Goethe chấp nhận: Khi nghệ thuật đã đạt đến, tất cả đều phải nguyện ámen. Ngay cả ngoài thực tại, con người cũng nhìn thấy phong cảnh qua đôi mắt của trái tim, đừng nói đến trong nghệ thuật!
Phong cảnh Tràng giang được nhìn từ góc nhìn của một người đang buồn: Sóng gợn tràng giang buồn rối bờ - một nỗi buồn đa tầng. Một nỗi đau phủ mặt - nỗi sầu cổ xưa. Nỗi buồn từ xa xăm, nhưng người đọc hãy để Lí Bạch thần thi được yên trong nỗi buồn của Hoàng hà chảy về phía biển lớn, không trở lại..., để Trần Tử Ngang yên bình:
Ai đã đi qua trước đây?
Ai sẽ đến sau này?
Suy ngẫm về vô biên của trời đất
Một mình nhớ nhung giọt lệ.
Hãy cùng tôi khám phá nỗi buồn trong thơ Việt.
Nguyễn Trãi có lẽ là người khai sinh ra khúc trữ tình buồn trong thơ Việt:
Côn Sơn sông nước vàng óng
Như tiếng suối lạch trong âm nhạc đàn cầm
Côn Sơn với đá âm u
Mưa rào rơi, đá sạch, ta trải nằm vui.
Từ Nguyễn Trãi, dòng thơ buồn ngập tràn trong tâm trí Nguyễn Du: Buồn nhìn bờ biển chiều tà, Thuyền ai ẩn hiện cánh buồm xa xa. Buồn trong tâm trí Tú Xương: Trời không mưa, biển không động, Mỗi đêm, mỗi đêm, tôi buồn thảm... Buồn trong tâm hồn Tản Đà và buồn ngập tràn trong lòng Huy Cận. Nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn từ hàng vạn đời thế.
Nỗi buồn của Huy Cận bắt nguồn từ những giây phút sự kinh ngạc: Con người sao lại nhỏ bé đến thế trước một bầu trời vô hạn như thế! Con người chìm đắm trước sự vĩ đại của vũ trụ:
Không gian vô biên không một chiếc thuyền nào qua lại.
Con người bị lạc lõng, con người lo lắng... như con người của Qua-di-mô-đô:
Mỗi người ta đứng một mình trên hành tinh
Lòng chìm trong tia nắng mặt trời
Nhưng lòng vẫn chưa thể nguôi ngoai!
Con người kinh ngạc trước bao la của trời đất nên cảm thấy mình như một thực thể cô đơn, một thực thể cô lập giữa bờ dài, trời cao bao la..., một thực thể lênh đênh giữa dòng nước:
Bèo dạt đi về đâu, hàng nối hàng.
Một phụ thuộc vào số phận:
Cành cây khô gặp mưa, lạc lối nơi dòng nước.
Thi cảm Huy Cận kế thừa truyền thống từ cái cô đơn trong thi cảm của Nguyễn Trãi, mượn hình ảnh đá trời nằm chơi một mình giữa thế gian, từ Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ta ngu ngốc, tìm kiếm chốn hẻo lánh..., từ nỗi cô đơn trong thi cảm của Nguyễn Khuyến... Như vậy, trong nỗi cô đơn của Huy Cận, có cả tinh thần phương Đông và phương Tây. Trong số các nhà thơ mới của mình, Huy Cận là người thực hiện việc hòa nhập hai phong cách thẩm mỹ Đông và Tây. Có thể nói, trong Thơ mới, có một nỗi buồn trước Huy Cận và từ Huy Cận. Ai đã buồn trước ở cõi tiên (Thế Lữ), đã buồn trong những mối tình đầu (Lưu Trọng Lư), đã buồn trong say mê (Xuân Diệu), đã buồn đến điên cuồng (Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên)... Nay Huy Cận buồn với cuộc sống, buồn như cuộc đời: Giọt nước mắt đọng lại trên mái nhà, Nghe trời nặng nề, lòng ta càng buồn... Huy Cận đã đem nỗi buồn từ những nơi xa về gần trong thế giới con người.
Với Thơ mới, Huy Cận đã đủ cho một cuộc hành trình hoàn chỉnh. Sau đó chỉ là những kế tiếp trên con đường dài của nghệ thuật ấy. Điều đó đã đủ để tạo nên một đời thơ đầy ý nghĩa.