Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tài năng nhất trong văn học Trung đại Việt Nam. Bà để lại một di sản văn chương phong phú, có giá trị cao trên cả thơ chữ Nôm và chữ Hán. Trong số các tác phẩm của bà, tiếng nói động viên với số phận của phụ nữ và bài thơ Tự Tình (bài I) là một trong những tác phẩm như vậy.
Mở đầu bài thơ, hai cậu đề gợi lên một không gian rộng lớn, mơ hồ từ chiếc thuyền trên dòng sông đến mọi ngóc ngách của làng quê. Người phụ nữ thức đêm suốt những giờ dài. Tiếng gà gáy vang vọng từ chiếc thuyền xa xa truyền tới. Đêm dài trôi qua, mịt mùng và lặng lẽ chỉ nghe thấy tiếng gà gáy vang vọng như thế. Nghệ thuật sử dụng tiếng (tiếng gà gáy) để diễn tả sự yên bình lặng lẽ của đêm tối ở làng quê đã giúp làm nổi bật tâm trạng 'oán thù' của người phụ nữ thức đêm. Cô gái ngồi dậy, nhớ lại tiếng gà gáy từ xa, rồi 'nhìn ra' màn đêm u tối. Màn đêm như là một cái bẫy bủa vây người phụ nữ trong nỗi đau đớn, oán hận:
“Tiếng gà vang vọng trên chiếc thuyền,
Oán thù vọng xa khắp nơi”.
Hai dòng thơ đan xen, tác giả tạo ra hai hình ảnh “mõ thảm' và “chuông buồn' đối lập, phản ứng lẫn nhau, thể hiện sự đau khổ, buồn bã của bản thân đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, trở ngại trong tình duyên, với những câu thơ đầy ẩn dụ. Phủ định để khẳng định tiếng 'gõ' của “mõ thảm', tiếng “ôm” của “chuông buồn'. Nữ thơ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau vì nỗi đau của cuộc đời mình cô đơn như “mõ thảm”, không ai gõ 'mà cũng gõ', thương cho nỗi thương của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như “chuông buồn' không đánh “vì sao ôm'. Nỗi oán thù, đau buồn sầu tủi như thấm vào tận đáy lòng, đớn đau tột cùng, như đang lan tỏa trong không gian “khắp nơi', như kéo dài qua thời gian của những đêm dài. “Ôm” là tiếng bất thường, tiếng chuông buồn, cũng là hình ảnh của nỗi thương tê tái, đau đớn tột cùng. Câu hỏi nhẹ nhàng đã khiến giọng thơ đau đớn, xoay sâu vào tâm trí như một lời kêu than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn chán:
“Mõ thảm không gõ mà cũng gõ,
Biết đến thời thanh xuân của mình, Hồ Xuân Hương đã có những câu thơ rạng rỡ, tươi sáng như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước), “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh đu),... chúng ta mới thấu hiểu hết nỗi thương đau về bi kịch cô đơn của nữ thi sĩ được diễn tả rõ ràng trong hai dòng thơ này.
Lời kêu gọi từ lòng cô đơn được thể hiện sâu trong phần phân tích, làm cho sự 'đau khổ' và 'tức giận' trong số phận trở nên rõ ràng hơn:
“Trước nghe' so sánh với “sau giận'; “tiếng' phản ánh “duyên”-, “rầu rĩ' biểu thị tâm trạng so với “mõm mòm' là trạng thái. 'Trước nghe nhưng tiếng...”, là những tiếng gì? - Tiếng của miệng đúng không? Hay là tiếng gà gáy vang xa, tiếng “chuông buồn', tiếng 'mõ thảm' đáng “ gõ”, đang “ôm' trong lòng mình? Trong cảnh đêm thức trắng, nghe thêm “rầu rĩ', buồn rầu. Trong khi thời khắc tàn canh thao thức, nghe thêm “giận”, thêm tức về tình duyên đau lòng. Tình duyên được coi như trái cây, không còn “má hây hây gió' nữa mà đã chín “mõm mòm', tức là đã quá chín, đã hết! “Duyên mõm mòm' là duyên phận đầy hẩm hiu, quá lứa lỡ thì! Trong câu thơ tự tình, có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, thốt ra thấp thỏm, trách phận và đau lòng về con đường tình duyên. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hương là lời kêu gọi tự thương mình, đồng thời cảm thông cho những phụ nữ cùng cảnh ngộ đã già mà vẫn cô đơn: “Giật mình mình lại thương mình xót xa' (Truyện Kiều)
“Ai đó, tài tử, hay ai đó chứ!”
Thân này, chẳng có ai chịu già đâu!'
Một sự kết hợp giữa nghi ngờ và sự ngợi khen, hai dòng kết cuộc đầy mâu thuẫn. Nữ thi sĩ vẫn hy vọng vào khả năng của mình có thể thay đổi số phận, vẫn tin rằng có thể tìm thấy một đối tác lâu dài trong số những người văn nhân tài năng. Câu thứ 6 nữ thi sĩ viết: “Sau giận vì duyên để mõm mòm', câu 8 lại là: “Thân này đâu đã chịu già tom!”. “Già tom” có nghĩa là cực kỳ già, rất già! Đó là một cách “nói mạnh” thể hiện một tinh thần “ngoan cố”, một lòng kiên định trước những gian trái của cuộc sống. Đọc bài thơ “Tự tình” cũng như tìm hiểu về cuộc đời của nữ thi sĩ, về mặt tình duyên, chúng ta thấy hạnh phúc của tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyên Hầu' (Nhớ người cũ, viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn Du - tước hầu) như một ánh sáng soi sáng một “mảnh tình riêng” của “bà chúa thơ Nôm', giúp chúng ta hiểu được bài thơ “Tự tình' này:
“Nghìn nỗi nhớ nhung đi mãi,
Cùng chia sẻ một chặng đường.
Tình cảm đã ba năm ngày,
Giấc mơ tan vào nửa khắc không.
Xe ngựa đang vui mừng vì số phận đầy sôi động,
Phấn son và nỗi buồn cùng nhau lảng đi trong lòng.
Vẫn còn chút sương đọng nhẹ,
Lặn mất nửa khắc dưới ánh trăng '
Bài thơ “Tự tình' đặt ra những vần thơ đầy khó hiểu, 5 vần thơ mỗi vần đều có ý nghĩa sâu sắc: 'bom-chòm-tìm-mòm-tom'. Những vần thơ đầy khó hiểu ấy không chỉ thể hiện sự điêu luyện của bút pháp mà còn tạo ra một giai điệu, âm điệu như làm tỏ ra “oán', “hận', và “ngang bướng” của một tâm trạng; một cá tính rất đặc trưng của Xuân Hương. Vấn đề về duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung sâu sắc mà mỗi người đều có thể cảm nhận qua bài thơ “Tự tình' này của Xuân Hương. “Tự tình' là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Chính vì điều này, bài thơ “Tự tình' mang giá trị nhân bản sâu sắc.