
Đề bài: Nhận định về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, ông Phạm Văn Đồng cho rằng đó là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn kiêu hãnh. Hãy phân tích bài văn để làm sáng tỏ nhận định trên.
BÀI LÀM
“Chết là hết”, người ta thường nói như vậy. Và cuối cùng mọi người đều phải chết. Nhưng có những cái chết 'không một tiếng vang', lại có những cái chết để “tiếng thơm muôn thuở”. Người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng lên chống Pháp và đã chọn cái chết đẹp đẽ: “Rủ nước non mà rửa danh, danh vang muôn năm bảy tỉnh đồng lòng khen; rủ nước rồi tới miếu thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng ngưỡng mộ”. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là 'khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn kiêu hãnh” Phạm Văn Đồng.
Đã hơn một thế kỉ trôi qua. Cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã thất bại. Họ phải ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh 'da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ”. Họ là những người thất thế, đúng như vậy. Nhưng bài văn tế nghĩa sĩ Cần Guộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống lại' trong những hình tượng đầy khí phách kiêu hãnh. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, suốt ngày: “Lăn lộn làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu đến trường nhung... '. Ấy thế mà khi giặc tới họ liền trở thành những dũng sĩ.Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác:
Không cần ai đợi, ai bắt, lúc này ta tự nguyện dấn thân;
Không chạy trốn, không trốn chạy, họ đều quyết tâm đối mặt với thử thách này một cách dũng cảm
Trong bối cảnh triều đình yếu đuối, chỉ nghĩ đến việc nhượng bộ, đầu hàng, họ đã tự nguyện đứng lên. Tinh thần 'Yêu nước vượt quân chiêu mộ' của những người nông dân này thực sự đáng ngưỡng mộ. Cuộc chiến của họ tự nhiên đầy gian nan: Số lượng quân địch áp đảo, chênh lệch quân sự, thiếu vũ khí và trang bị quân sự. Đội quân nông dân từ ruộng đất nghèo khó này gần như chuyển từ cày cuốc trực tiếp lên chiến trường, từ những lều rách tả tơi và những cánh đồng của họ, không có cờ reo, trống giục, không mũ, không giáp, không vũ khí, không gươm kiếm...
Ngoài tấm vải chỉ là mảnh vải, không cần mang theo bao nhiêu thứ khác
Trong tay chỉ cầm một cành cỏ, không cần bất kỳ thứ vũ khí nào khác, không cần mũ bảo hiểm, không cần kiếm, không cần nón gỗ
Họ sử dụng hỏa mai đánh bằng rơm và con cúi, 'gươm đeo dùng làm từ lưỡi dao phay'. Và họ đã khiến cho kẻ thù kinh hãi, khiến cho họ mất tinh thần. Sức mạnh của họ không chỉ đến từ vũ khí mà còn từ tinh thần kiên cường. Họ dũng cảm đối đầu với sự đe dọa, tự nguyện chiến đấu chống lại 'tàu sắt, tàu đồng'. Nguyễn Đình Chiểu không quên nhắc nhở về họ là những nông dân 'Ngửi mùi hương của đất đã ba năm, căm ghét mọi thứ giống như căm ghét mùi cơm nước'. Những người nông dân này bản chất là hiền lành, nhưng khi tình yêu đất nước được kích thích, họ trở nên mạnh mẽ trong sự căm thù.
Nhìn thấy bòng bong che phủ trắng bao lốp, muốn đến và ăn gan
Mỗi khi thấy ống khói bay lên màu đen thúi, muốn ra đó và cắn cố
Tinh thần căm hận đã mang lại cho họ sự dũng cảm và sức mạnh phi thường. “Người đâm ngang, kẻ chém ngược', họ di chuyển mạnh mẽ, tự do như ở nơi không có sự kiểm soát: 'Vượt qua hàng rào một cách dễ dàng, coi giặc như không tồn tại”, 'xông pha qua cánh cửa, liều mình như không có chướng ngại vật”.
Nguyễn Đình Chiểu đã tôn vinh những nhà nông anh hùng bằng những hình ảnh rực rỡ và văn từ trang trọng, đẹp đẽ. Tuy nhiên, ông không lẩn tránh sự thực bi đau lòng. Bài văn cũng là tiếng ai oán, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất bại và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ đã làm xúc động cả con người, đất đai, cây cỏ:
Dọc theo sông Cần Giuộc: Cỏ mọc dày đặc như thương nhớ vô tận,
Nhìn thấy chợ Trường Bình, cả già và trẻ đều bị ảnh hưởng bởi những khó khăn nhỏ nhặt.
Khi đọc những dòng văn của Đồ Chiểu, người ta như nghe thấy tiếng khóc, tiếng thổn thức đầy cảm xúc: Ôi, thật là đau lòng! Chùa Tông Thạnh đóng kín cửa trong lạnh giá, lòng nhân ái trở lại như bóng trăng rằm; đồn Lang Sa chứa đựng bi kịch khác, số phận như hạt cát trôi theo dòng nước cuồn cuộn.
Cảnh đau đớn! Mẹ già ngồi khóc cho những đứa trẻ, ngọn đèn trong nhà nhấp nhô trong bóng tối; cảnh trống trải! Vợ yếu đuối đi tìm chồng, cảm giác cô đơn lạc lõng trước cửa
Nỗi đau vô hình kia phủ lên cả bài thơ, nhưng đó không phải là nỗi đau khiến con người chán nản, mất hy vọng. Đó là nỗi đau cao cả vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nỗi đau ấy thúc đẩy mọi người đứng lên kiên cường sau thất bại của cuộc khởi nghĩa. Nhiều anh hùng đã hi sinh. Nhưng chết vì quê hương còn hơn sống trong sự xấu hổ:
Thà chết trong trận mà đặng danh tính, về theo tổ tiên cũng vinh quang; còn hơn phải sống dưới sự áp bức, làm việc vất vả dưới bóng chữ Tây.
Khi chết như vậy, thì cái chết trở nên như là một sự sống tiếp tục, vì 'danh tiếng trường tồn, người người khen ngợi”, ''tiếng cao vút vượt thời gian mà ai cũng ngưỡng mộ”. Chết như thế là để lại một bức tranh tươi sáng, mang động lực lớn cho cuộc chiến tiếp diễn:
Sống để đấu tranh với kẻ thù, chết cũng vậy, tinh thần cống hiến không ngừng
Khen ngợi anh hùng đấu tranh chống lại Mỹ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu đã tường thuật
Những khoảnh khắc tạo nên lịch sử
Có cái chết biến thành vĩnh cửu.
(Hãy ghi nhớ điều tôi nói)
Đó cũng là điểm mấu chốt của những người anh hùng Cần Giuộc, những con người bị thất bại nhưng vẫn kiêu hãnh 'được phản ánh trong bài thơ bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu. Cảm ơn nhà thơ mù Đồ Chiểu đã bằng tấm lòng và tài năng nghệ thuật để làm sống lại một thời kỳ bi thương và hùng vĩ. Ông đã biến những người đã khuất thành bất tử, xây dựng họ thành một tượng đài vững chắc và uy nghiêm trong thơ văn cũng như trong tâm trí của người đọc mãi mãi sau này.