Đánh giá
1. Bắt đầu bài:
- Giới thiệu tổng quan về nhà thơ Tú Xương: một nhà thơ tài năng, nổi tiếng với nhiều bài thơ châm biếm đặc sắc.
- Tóm tắt nội dung bài thơ 'Vịnh khoa thi Hương.'
2. Nội dung chính:
a. Hai dòng đề:
- Làm phiền về sự kiện: theo truyền thống, mỗi ba năm có một kỳ thi Hương => Sự kiện này trở nên như một thông tin thông thường, không có gì đặc biệt.
- Sử dụng từ “lẫn”: thể hiện sự kết hợp, hỗn tạp của kỳ thi này, điều này không phải là điều bình thường của kỳ thi.
=> Hai dòng đề với kiểu câu kể chuyện tự nhiên mô tả kỳ thi với sự kết hợp, hỗn tạp, thiếu nghiêm túc trong buổi giao thời.
b. Hai dòng thực:
- Hình ảnh:
+ Sĩ tử: luộm thuộm, vai mang lọ -> dáng vẻ không chăm chú, không nghiêm túc.
+ Quan trường: oai oái, miệng thét to -> hành vi hùng biện, nhưng không có sự nghiêm túc, chỉ là một cách giả vờ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng từ so sánh và tượng hình: oai oái, luộm thuộm.
+ So sánh: sĩ tử luộm thuộm >< quan trường oai oái.
+ Đảo ngữ: Đảo ngữ cú pháp “luộm thuộm sĩ tử”, “oai oái quan trường”.
=> Sự hỗn loạn, không nguyên tắc, không chăm chú của buổi thi, mặc dù đây là một buổi thi Hương quan trọng của nhà nước.
=> Bức tranh buổi thi phản ánh sự giảm sút về mặt học vấn, sự lỗi thời của triết học Nho.
c. Hai dòng luận:
- Hình ảnh:
+ Quan sứ: Viên quan Pháp đứng đầu bộ máy quản lý của tỉnh Nam Định được tiếp đón trang trọng.
+ Mụ đầm: vợ của quan sứ, mặc quần áo đầy đặn, điệu đà.
=> Sự phô trương, hình thức, không tuân thủ nghi thức của một buổi thi.
+ So sánh: Lọng >< váy, trời >< đất, quan sứ >< mụ đầm → Thái độ châm biếm, mỉa mai đối với quan lại, chế độ thực dân.
=> Tất cả chỉ ra một sự sụt giảm về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
d. Hai dòng kết:
- Tâm trạng của tác giả trước tình hình buổi thi: Thất vọng, đau xót trước sự giảm sút của đất nước. Thái độ châm biếm, phẫn uất của nhà thơ đối với hệ thống thi cử hiện đại và đối với con đường học vị của mình.
- Hai dòng cuối như một lời nhắn nhủ đến những người tham gia buổi thi về nỗi đau mất nước. Nhà thơ đặt câu hỏi cho người khác, nhưng cũng là đang tự hỏi mình.
3. Kết luận:
- Nhận định tổng quan về bài thơ.
Bài thơ đầy nghệ thuật 'Vịnh Khoa Thi Hương' của Tú Xương thể hiện nỗi đau, nỗi nhục của sĩ tử và trí thức trong một thời kỳ nước ta bị thực dân chiếm đóng. Bức tranh biếm họa với hai hình ảnh ông Tây và mụ đầm đã cực kỳ rõ ràng và đầy sức mạnh trong việc khắc họa nỗi đau mất nước, nỗi nhục phải phục xuống trước kẻ thù. Phong cách thơ của Tú Xương không chỉ thể hiện nỗi đau mà còn chứa đựng tâm trạng chua xót, cay đắng của một thời kỳ đầy sóng gió. Bài thơ đã thành công trong việc truyền đạt những cảm xúc sâu sắc của tác giả với người đọc, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật của văn chương Việt Nam thời đại đó.
Bài mẫu 2
Đây có lẽ là bức tranh chân thực nhất về tình hình xã hội trong kỳ thi cử ở Việt Nam thời thực dân và phong kiến. Bức tranh này miêu tả cảnh thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, phản ánh nỗi nhục mất nước và đau đớn của người sĩ tử.
Bắt đầu bài thơ với hai dòng:
Nhà nước ba năm tổ chức một kỳ thi,
Trường Nam và trường Hà cùng thi.”
Hai dòng này mô tả một cách khéo léo đặc điểm của kỳ thi Hương. Điểm đặc biệt thứ nhất là mỗi ba năm, 'nhà nước' tổ chức một kỳ thi như vậy. Điểm đặc biệt thứ hai là trường Nam và trường Hà Nội cùng tổ chức kỳ thi này. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, Bắc Kì có hai địa điểm tổ chức kỳ thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Vào năm Đinh Dậu 1897, do lo ngại các cuộc khởi nghĩa của dân chúng, thực dân Pháp không cho phép tổ chức thi ở Hà Nội nữa, do đó chính quyền nhà Nguyễn đã chỉ tổ chức ở Nam Định. Từ 'cùng thi” mô tả sự hỗn tạp, lố bịch và không còn sự tổ chức gì. Do đó, trong nghệ thuật, hai dòng này đã thực hiện tốt nhiệm vụ giới thiệu của mình.
Tính chất lôi thôi, rối bời của kỳ thi ngay lập tức hiện ra qua hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Người sĩ tử mang vác lôi thôi, cầm chai lọ trên vai đầy cảm xúc. Từ 'lôi thôi' ở đầu câu tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, gợi lên hình ảnh 'vai đeo lọ' đậm chất châm biếm, chỉ ra tư thế và tính cách của người sĩ tử, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến. 'Lọ' ở đây có thể hiểu là lọ mực hoặc lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh 'vai đeo lọ' vẫn nổi bật sự xiêu vẹo, gãy gọn, lạc lõng của những người sẽ cai trị tương lai.
Với những người sĩ tử như thế, quan trường cũng nhận được một từ miêu tả đầy ý nghĩa:
“Quan trường bốc trầm tiếng thét loa”
Cái 'lôi thôi' của sĩ tử và cái 'ậm oẹ' của quan trường. Ậm oẹ là một từ độc đáo của Tú Xương, miêu tả việc quan trường sử dụng loa để chỉ dẫn, điều khiển và nhắc nhở thí sinh. Vì trường thi rộng lớn và số lượng thí sinh đông đảo, quan trường phải thét vào loa để mọi người nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ thực hiện nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình. Tuy nhiên, từ ngữ 'ậm oẹ' đã tạo ra một hình ảnh rất sắc nét, thú vị và biểu cảm, bộc lộ tư chất và tình hình thực tế của quan trường. Ậm oẹ là âm thanh ú ờ, không rõ ràng, nhưng giọng điệu nói lên sự căng thẳng, vênh váo của những người không có quyền lực thực sự. Vì vậy, nếu 'thí sinh' mất đi cái vẻ nho nhã, trí thức như trước, thì giám thị, giám khảo cũng không còn cái dáng nghiêm túc đáng tôn trọng nữa.
Tất cả những điều này hiện lên qua hai câu thơ đối lập nhau, tạo ra hình ảnh hài hước của một trường thi. Và hình ảnh này phản ánh nhiều ý nghĩa về xã hội hỗn tạp, nhộn nhịp trong thời đại đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, khi triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ gây cười.
Những suy tư này rõ ràng hơn qua hai câu kết thúc:
“Ồn ào trời quan cảnh tổ sứ,
Váy lụa quét đất mụ đầm ra.”
Tác giả lại miêu tả cảnh thi. Trong lịch sử, kỳ thi năm Đinh Dậu 1897 có sự tham gia của vợ chồng tối cao Paul Doumer và Le Normand. Vì vậy, mô tả này rất quan trọng để hoàn chỉnh cảnh thi. Nếu không có chi tiết này, thì thiếu rất nhiều. Vì thế, không có gì ngẫu nhiên khi một nhà thơ như Tú Xương đưa hình ảnh này vào trong bài thơ. Nếu hai câu này có vị trí quan trọng nhất trong bài thơ, thì hình ảnh của 'quần sứ mụ đầm' ở đây phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc đó: xã hội nô lệ, nơi quyền lực thuộc về thực dân. Hình ảnh 'ồn ào trời' cho thấy cảnh đón tiếp Tây quá lịch sự và kính trọng.
Hình ảnh quan Tây mụ đầm trên đỉnh cao biểu trưng cho tình hình mất nước của chúng ta.
Điều thú vị nhất không chỉ ở các chi tiết đó mà còn ở việc Tú Xương sử dụng nghệ thuật để biểu đạt thái độ của mình:
Quan sứ đối với mụ đầm là một dạng châm biếm của Tú Xương. Quan sứ là từ trang trọng để gọi Tây, nhưng 'mụ đầm' là cách chửi. Mụ là cách gọi cho đàn bà không tôn trọng. Gọi ông quan Tây trang trọng, nhưng gọi vợ ông là con mụ không ra gì, đó là cách chửi của Tú Xương.
Văn học là sự suy tư, không chỉ là mô tả. Ở đây, thông qua mô tả, Tú Xương biểu hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ phê phán sắc bén. Do đó, mặc dù là hiện thực, nhưng thơ của Tú Xương không chỉ đơn giản là hiện thực lạnh lùng, mà còn là tình cảm, đau xót của tâm hồn con người.
Vì vậy, không có gì lạ khi có người nói rằng 'thơ Tú Xương' đi cả hai hướng: hiện thực và trữ tình, trong đó chiều hiện thực ở Tú Xương chỉ là một chiều trái (Nguyễn Tuân). Trên chiều đó, chiều trữ tình là chủ đạo qua bài thơ 'Vịnh khoa thi Hương', Tú Xương đã vẽ nên cảnh thi nhỏ thôi nhưng phản ánh được bản chất xã hội Việt Nam.
Trần Phò
Giáo viên Chuyên môn Văn Trường THPT Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh
Bài mẫu 3
(...) Hai câu đầu miêu tả không khí và bối cảnh của kỳ thi Hương năm Đinh Dậu 1897. Lịch sự tổ chức một kỳ thi mỗi ba năm vẫn được duy trì, nhưng bây giờ chủ nhân của các kỳ thi này là nhà nước, tức là thực dân Pháp đã xâm lược. Tâm trạng thi trong bối cảnh mất nước, nô lệ, đầy nhức nhối. Cảnh thi nhốn nháo: Trường Hà Nội thi chung với trường Nam Định. Không có gì báo trước sự trang nghiêm cần thiết của những kỳ thi như thế này. Hai câu này thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm một cách tinh tế và đồng thời tiết lộ nỗi buồn sâu thẳm của tác giả trước tình trạng đất nước mất đi quyền tự chủ, độc lập. Chuyện thi cử thực tế là một phần của chuyện đất nước.
Hai câu tiếp theo mô tả người sĩ tử và quan trường Việt Nam. Tác giả lọc lấy góc nhìn thi cử qua tâm trạng chán nản, đau buồn và biến chúng thành những hình ảnh hài hước đồng thời cay đắng. Cách đảo ngữ được sử dụng một cách hiệu quả: Nhà thơ tập trung không vào những người thi cử mà thay vào đó là hình ảnh lôi thôi của họ. Sự suy giảm của phẩm sĩ Nho phong là điều rõ ràng. Nhà thơ không nghe nội dung lời quan trường mà nghe thấy âm thanh kì lạ, méo mó của tiếng loa râm rả quan trường phát ra. Tiếng thét khiến cho quan trường trở nên phô trương, tỏ ra mình là người lãnh đạo nhưng thực tế vị trí của họ lại không như vậy, như hai câu tiếp theo sẽ làm rõ.
Hai câu tiếp sau mô tả đại diện cho thực dân xâm lược. Cờ cờ rợp trời là truyền thống đón tiếp các quan lại Việt Nam khi họ đến thăm các kỳ thi, và nếu đó là kỳ thi Tiến sĩ thì chính nhà vua đến ra đề và chấm điểm. Thì ra nghi lễ ấy là để đón chào các quan Tây (quan sứ tên đầy đủ là quan công sứ).
So sánh giữa câu trên và câu dưới tạo ra sắc thái trào lộng, châm chọc mạnh mẽ. Cờ so với vây, rợp trời so với quét đất. Sự trang trọng của quan sứ bị hạ bệ ngay bằng chiếc váy của mụ đầm. Tuy nhiên, hai câu này cũng chứa đựng tâm trạng đau đớn, nhục nhã và uất ức của tác giả, cũng như một sĩ tử nào đó trong đó. Còn việc nói đến chữ nghĩa thánh hiền, luân thường đạo lí cao siêu trong khi kẻ làm chủ kỳ thi lại là những người ngoại đạo xa lạ.
Câu cuối cùng “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”, là lời kêu gọi, nhắn nhủ của một nhà nho đến những sĩ tử, những trí thức của Bắc đất và tất cả người Việt Nam để nhìn lại thực trạng đất nước mất đi độc lập, cảm nhận hết nỗi đau, nỗi nhục nhã mất nước, từ đó rút ra những suy nghĩ và hành động cần thiết. Lời thơ này chứa đựng tâm sự dưới hình thức trào phúng nhưng mang theo nỗi lòng ưu tư của một người trí thức, một phần buồn và uất ức (...)
Theo Trần Nho Thìn
Bài mẫu 4
Vịnh Khoa thi Hương thể hiện tấm lòng nồng nhiệt đối với cuộc sống của nhà thơ trào phúng Tú Xương.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Hai câu đầu miêu tả không khí và bối cảnh chung của kỳ thi hương năm Đinh Dậu 1897. Vẫn giữ lệ ba năm mở một khoa thi, nhưng bây giờ chủ nhân các kỳ thi là nhà nước, tức là thực dân Pháp xâm lược. Tâm trạng thi trong bối cảnh mất nước, nô lệ, đầy nhức nhối. Cảnh thi nhốn nháo: Trường Hà Nội thi chung với trường Nam Định. Không có gì đảm bảo sự trang nghiêm cần có của những kỳ thi như thế này. Hai câu này thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm một cách tinh tế và đồng thời tiết lộ nỗi buồn sâu thẳm của tác giả trước tình trạng đất nước mất đi quyền tự chủ, độc lập. Chuyện thi cử thực tế là một phần của chuyện đất nước.
Sĩ tử loè ngoè, quan trường ầm oẹ
Hai câu tiếp theo mô tả thực sĩ tử và quan trường Việt Nam. Góc nhìn thi cử lọc qua tâm trạng chán nản, đau buồn của tác giả đã biến chúng thành những hình ảnh hài hước mà đầy chua chát. Việc đảo ngữ được sử dụng hiệu quả: Nhà thơ tập trung không vào sĩ tử mà thay vào đó là dáng vẻ lôi thôi của họ. Sự suy giảm của phẩm sĩ Nho phong là điều rõ ràng. Nhà thơ không nghe nội dung lời quan trường mà nghe thấy âm thanh kì lạ, méo mó của tiếng loa râm rả quan trường phát ra - Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Tiếng thét khiến cho quan trường trở nên phô trương, tỏ ra mình là người lãnh đạo nhưng thực tế vị trí của họ lại không như vậy, như hai câu tiếp theo sẽ làm rõ.
Quan sứ đầy cảm phục, váy lê buông xõa
Hai câu thơ 5 và 6 mô tả đại diện của thực dân xâm lược. Cờ đầu trời trong truyền thống là đón các quan lại Việt Nam thường đến thăm các trường thi, và nếu đó là kỳ thi Tiến sĩ thì chính nhà vua đến ra đề và chấm điểm. Hóa ra nghi lễ ấy là để đón chào các quan Tây (quan sứ tên đầy đủ là quan công sứ).
So sánh giữa câu trên và câu dưới tạo ra sắc thái trào lộng, mỉa mai, đả kích mạnh mẽ. Cờ so với váy, đầu trời so với đất. Sự trang trọng của quan sứ bị hạ bệ ngay bằng chiếc váy của mụ đầm. Tuy nhiên, hai câu này cũng chứa đựng tâm trạng đau đớn, nhục nhã và uất ức của tác giả, cũng như một sĩ tử nào đó trong đó. Còn việc nói đến chữ nghĩa thánh hiên, luân thường đạo lí cao siêu trong khi kẻ làm chủ kì thi lại là những người ngoại đạo xa lạ.
Câu cuối cùng “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”, là lời kêu gọi, nhắn nhủ của một nhà nho hướng đến sĩ tử, tri thức của Bắc đất và tất cả người Việt Nam để nhìn lại thực trạng đất nước mất đi độc lập, cảm nhận hết nỗi đau, nỗi nhục nhã mất nước, từ đó rút ra những suy nghĩ và hành động cần thiết. Lời thơ này chứa đựng tâm sự dưới hình thức trào phúng nhưng mang theo nặng nỗi lòng ưu tư của người trí thức, một thoáng buồn và uất ức.