Đề bài: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương
I. Phân tích chi tiết
II. Bài văn mẫu
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương
I. Cấu trúc Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương (Tiêu chuẩn)
1. Khai mạc
- Giới thiệu về bài thơ
+ Nằm trong số mười ba tác phẩm thuộc chủ đề 'thi cử'
+ Sử dụng hình ảnh thi cử để diễn đạt về hoàn cảnh đất nước và thể hiện tâm tư cá nhân.
2. Phần chính
- Nội dung của bài thơ: Mô tả cuộc thi Hương cuối triều Nguyễn với sự lố lăng, nhốn nháo, và áp đảo của thực dân Pháp.
- Hai câu đầu: Giới thiệu về trường thi
+ Bắt đầu bằng đặc điểm quen thuộc của các kì thi cử truyền thống. Nhà nước tổ chức khoa thi ba năm một lần
+ Điều đặc biệt: Trường Nam và trường Hà thi cùng một địa điểm
· Trường Nam: Thi ở Nam Định, trường Hà: Thi ở Hà Nội
· Nguyên nhân: Thực dân Pháp chiếm đóng Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị hủy bỏ => Sĩ tử hai trường phải thi chung một địa điểm...(Tiếp theo)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương tại đây
II. Bài viết mẫu Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương (Chuẩn)
Tú Xương, một nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm châm biếm, hài hước trên sân khấu thơ Việt Nam. Trong sự nghiệp đồ sộ của mình, ông sáng tác đến mười ba bài vừa thơ vừa phú nói về đề tài 'thi cử' với tư duy mỉa mai, phẫn uất với hệ thống thi cử đương thời. 'Vịnh khoa thi Hương' nằm trong số mười ba tác phẩm đó. Qua bài thơ, Tú Xương muốn tái hiện hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội nửa thực dân nửa phong kiến thông qua hình ảnh một kì thi Hương quan trọng và đồng thời lên tiếng về tình hình đất nước.
'Nhà nước ba năm tổ chức một khoa
Trường Nam thi lẫn trường Hà
Sĩ tử đeo lọ bước vào địa điểm thi
Quan trường cười đùa thất thường
Người quan sứ đến trời lạc lõng
Trang phục lênh đênh đất lầy
Tài năng của Bắc chẳng ai để ý
Ngước nhìn cảnh đất nước chìm trong lo sợ'.
'Vịnh khoa thi Hương' là một bức tranh sống động về chế độ thi cử của Việt Nam trong những năm cuối triều Nguyễn, dưới sự giám sát của thực dân Pháp. Đó là một bức tranh về một kỳ thi trọng đại nhưng lại diễn ra với sự lố lăng và nhốn nháo.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương tài tình mô tả hình ảnh kỳ thi hương với những đặc điểm độc đáo và khác biệt so với trước kia. Đầu tiên, kỳ thi hương được 'nhà nước' tổ chức ba năm một lần như mọi khi.
'Nhà nước mở mỗi khoa cách ba năm'
Đây là đặc điểm thông thường trong lịch sử thi cử nước ta. Tuy nhiên, điều thứ hai mới thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ.
'Trường Nam và trường Hà thi cùng một địa điểm'
Là hai địa điểm khác nhau, hai trường thi khác nhau, nhưng năm nay thì thí sinh của cả hai trường lại ngồi 'lẫn' nhau. Nguyên nhân là do khi thực dân Pháp chiếm đóng Hà Nội, trường thi ở đó bị hủy bỏ và 'nhà nước' buộc sĩ tử từ Hà Nội phải xuống trường Nam Định thi. Đây là điểm không bình thường và mới mẻ trong năm nay. Hơn nữa, Tú Xương sử dụng từ 'lẫn' để mô tả tình cảnh nhốn nháo và hỗn loạn trong trường thi, tạo nên sự đối lập với sự trang nghiêm cần thiết trong một kì thi hương quan trọng thuộc triều đình.
Hai câu đề đã thực hiện tốt vai trò mở đầu, giới thiệu về nó, để đến hai câu tiếp theo, người đọc được chứng kiến, kiểm nghiệm ngay cái sự nhốn nháo đã được đề cập trước đó:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Một khung cảnh thực sự hỗn loạn, thật là nhốn nháo. Sĩ tử đi thi mà quan trường lại lộn xộn đến như vậy, hoàn toàn thiếu quy cách của một kì thi hương quan trọng thuộc triều đình. Hai nhân vật chính trong kỳ thi được tả rõ nét, khắc họa sự đa dạng. Đồng thời, Tú Xương cũng làm cho độc giả thấy rõ cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay khác biệt so với thời xưa. 'Sĩ tử' - những người tham gia thi, thường phải trông thật nho nhã, trang trọng, nhưng ở đây lại toàn thấy sự luộm thuộm, lôi thôi với rất nhiều chai lọ, thật là nhếch nhác. Tú Xương có chủ ý đặt từ 'lôi thôi' ở đầu câu để nhấn mạnh sự nhếch nhác của sĩ tử trong mùa thi hương này. Hình ảnh của 'lọ' - thường được coi là chứa mực, nước uống của sĩ tử, nhưng lại 'đeo' trên vai. Nghe có vẻ mỉa mai đến thế. Hình ảnh đó như đang thể hiện sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lệch lạc của những người sau này sẽ là những trụ cột của đất nước. Và hơn nữa, ông cũng muốn nhấn mạnh rằng những kẻ 'vai đeo lọ' kia là những kẻ sĩ, những người có tri thức trong xã hội mà lại không giữ được phong thái của kẻ sĩ.
Không chỉ thế, Tú Xương cũng tinh tế nhấn mạnh hình ảnh của 'quan trường' - quan coi thi ở trường thi. Ông còn tìm ra từ ngữ phù hợp cho họ: 'ậm ọe'.
'Sôi sục quan trường miệng hò hét'
Nếu sĩ tử 'lôi thôi', nhếch nhác bấy nhiêu thì quan trường lại 'sôi sục', hò hét bấy nhiêu. Thực sự là từ ngữ độc đáo, lấy từ ngôn ngữ hằng ngày nhưng lại trở thành biểu tượng của Tú Xương. Âm thanh 'sôi sục' chỉ là những tiếng động hỗn tạp, không rõ ràng, nhưng lại được làm nổi bật bởi sự hò hét rộn ràng của đám quan trường. Điều này miêu tả phong cách, cử chỉ, và sự độc đáo của đám quan trường. Tú Xương như một nhiếp ảnh gia tài năng, chụp lại những hình ảnh chân thực nhất từ trường thi. Vì kì thi hương xưa thường có số lượng sĩ tử đông, diễn ra trên bãi đất rộng, cần sử dụng loa để mọi người có thể nghe rõ khi gọi tên. Tuy nhiên, sự trang trọng của lễ gọi tên đã bị những quan lại áp đặt, làm mờ đi bởi phong cách ồn ào, vênh váo của những kẻ đang giữ chức vụ mà không có thực quyền. Do đó, trong kì thi hương ấy, không chỉ sĩ tử mất đi phong thái của người học thức mà quan lại cũng đánh mất sự tôn kính, nghiêm túc của một sự kiện quan trọng của đất nước.
Hai câu thơ song song nhau, làm nổi bật cảnh trường của trường thi. Nhưng trong đó, chúng ta không chỉ nhìn thấy bức tranh của trường thi với kì thi hương mà còn thấy hình ảnh lộn xộn, hỗn loạn của đất nước trong thời kỳ nửa thực dân nửa phong kiến. Triều Nguyễn giống như một chiếc bình phong, một con búp bê được dắt dẫn bởi chính quyền Pháp.
Trong câu thơ, tác giả mỉa mai đến độ nhụt chí của triều đình Nhà Nguyễn, đồng thời, trong hai câu thơ tiếp theo, ông tiếp tục thể hiện sự mỉa mai, khinh bỉ đối với chính quyền thực dân:
'Rợp trời quan sứ cắm lọng xuống
Váy lê quét đất mụ nổi bật'
Hết lòng tận tụy với sự thể hiện chân thực, Tú Xương tả lại cảnh trường thi khi bị Toàn quyền Pháp cùng phu nhân thăm dò. Không phải tình cờ mà tác giả chọn đặt hình ảnh này trong những câu thơ quan trọng nhất của tác phẩm. Bởi hình ảnh của một 'ông Tây' cùng với 'bà đầm' là hình ảnh chân thật nhất về tình hình xã hội Việt Nam thời đó. Đó là thời kỳ mà dân chúng trở thành nô lệ, triều đình chỉ còn là bức bình phong, trong khi thực quyền nằm trong tay người Pháp. Việc một kẻ cướp nước được đón tiếp tại một trường thi quan trọng, với sự trang nghiêm của 'lọng' và 'cờ', thật sự là một bức tranh trào phúng và mỉa mai.
Không chỉ thế, quan Tây và phu nhân được miêu tả như đang tháronh lên cao nhất tại trường thi. Tú Xương có ý gì? Có phải hình ảnh nước mất nhà đang xảy ra trước mắt?
Tuy nhiên, với sự tinh tế của tác giả, việc sử dụng thơ Đường như một vũ khí để mỉa mai là rất rõ ràng, để tác động đến thái độ của ông đối với nhóm cướp nước.
Bằng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương sắp xếp 'váy' của bà đầm và 'lọng' của quan Tây ngang bằng, kết hợp hai hình ảnh này lại, tạo nên sự châm biếm và mỉa mai, câu thơ như 'chửi thẳng' vào mặt quan sứ người Tây. Tác giả không chỉ dùng từ 'quan sứ' để mô tả quan Tây mà còn sử dụng từ 'mụ đầm' khi ám chỉ vợ của ông, tạo ra sự khinh bỉ, 'chơi xỏ' đầy châm chọc. Thật sự, lời chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy!
Như vậy, thơ Tú Xương không chỉ là bức tranh lạnh lùng, tàn khốc về hiện thực mà còn chứa đựng tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, làm lộ rõ tâm trạng của một người yêu nước, đau lòng trước tình cảnh mất nước nhưng bất lực trước sức mạnh lớn.
Cuối cùng, cái tiếng cười đó không thể che lấp đi niềm đau trong tâm hồn ông, nó vỡ ra thành âm thanh:
'Nhân tài đất Bắc đâu rồi?
Ngoảnh cổ mà nhìn cảnh nước nhà'.
'Đất Bắc' - nơi chốn kinh đô lâu dài, bậc đế vương từng ngự trị, nơi tập trung anh tài đất nước. Lời thơ như một tràn đầy than thở đau đớn của Tú Xương khi chứng kiến đất nước trôi vào tay địch. Ông nói với lòng mình hay kêu gọi những ai còn nhớ đến nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc lịch sử bất diệt? 'Nhân tài' ở đây chỉ những người mơ ước bước qua cánh cửa thi hương, hoặc những người đã chân chất đặt bước chân tới đây, hãy nhìn nhận 'cảnh nước nhà' như thế nào?
Tú Xương không diễn đạt ý chống đối mạnh mẽ như thơ Nguyễn Đình Chiểu:
'Hỡi trang dẹp loạn, ở đâu, sao vắng?
Nỡ để dân chúng gặp nạn này?'
Tú Xương không mạnh mẽ như Nguyễn Đình Chiểu, ông chỉ nhấn mạnh sự nhục nhã khi mất nước. Ông trách móc sự lạnh lùng của những người yêu nước, họ đóng vai làm ngơ, không chấp nhận, để lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai phá hủy đất nước. Ông kêu gọi họ 'ngoảnh cổ mà trông', để thấy đất nước suy tàn trước mặt địch. Cái cười châm biếm của Tú Xương nhường chỗ cho nỗi đau xót khi đất nước gặp khó khăn.