Đề bài: Phân tích Vội vàng của Xuân Diệu
1. Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
7. Bài mẫu số 6
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
I. Bố cục phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Hoàn chỉnh)
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
2. Phần chính:
a. Tâm hồn trữ tình, mới lạ:
- Mong muốn “làm tắt nắng”, “ràng buộc gió” để giữ lại những đẹp đẽ giản dị diễn ra trong cuộc sống.
- Cái tôi mạnh mẽ, táo bạo, muốn thay đổi cả quy luật của tạo hóa để bảo tồn vẻ đẹp trần gian.
=> Xuân Diệu thể hiện lòng yêu cuộc sống và thiên nhiên mùa xuân, nhưng đằng sau đó là niềm tiếc nuối, sợ hãi không theo kịp bước chân của tạo hóa...(Tiếp theo)
>> Đọc toàn bộ Dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu tại đây.
II. Mẫu văn phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
1. Khám phá tâm hồn bí ẩn qua bài thơ vội vàng của Xuân Diệu, mô phỏng mẫu số 1 (Chuẩn)
Trong dòng thơ Mới, ngoài bức tranh kỳ lạ, huyền bí của Hàn Mặc Tử, vẻ quê mùa đậm đà của Nguyễn Bính, nỗi buồn thấm thía, u ám của Huy Cận, Xuân Diệu tỏa sáng như một hiện tượng duy nhất, tràn đầy sự mới mẻ và quyến rũ. Ông mang lại cho thế giới thơ một luồng không khí mới, trẻ trung, yêu đời, nồng nhiệt và say mê, như một người yêu tình đang vội vã điền đầy những khoảng trống, những cảm xúc vắng bóng, một người 'tham lam' trải nghiệm vẻ đẹp và hương vị bình thường giữa cuộc sống. Ai đọc thơ của Xuân Diệu, người đó sẽ không chỉ chê mà còn khen ngợi nồng nhiệt, và đa số những người yêu thích là những người trẻ trung, tràn đầy sức sống. 'Vội vàng' là một trong những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất của Xuân Diệu, thể hiện rõ phong cách sáng tác và quan điểm sống sâu sắc của tác giả.
“Tôi muốn đèn mặt trời xuống
Để màu sắc không bao giờ phai nhạt
Tôi muốn buộc chặt cơn gió
Để hương thơm không bao giờ bay đi”
Trong bốn dòng thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã tiết lộ cái tôi cá nhân của mình một cách rõ ràng và độc đáo bằng những ước muốn kỳ lạ có phần hoang đường và ngây thơ khi tác giả muốn 'đèn mặt trời', 'buộc chặt gió' những điều tưởng như không thể xảy ra. Đằng sau tâm hồn mạnh mẽ ấy là một tình yêu sâu sắc với cuộc sống, vì yêu nên người thơ đã nuối tiếc tất cả vẻ đẹp giản dị diễn ra trong cuộc sống này. Đối với Xuân Diệu, ánh nắng rực rỡ của mùa hạ hay sự nhẹ nhàng của mùa thu đều thực đẹp và thực quý giá, và chính Xuân Diệu mong muốn ánh nắng ấm áp ấy sẽ mãi tồn tại để trải nghiệm và thưởng thức.
Nhà thơ muốn 'đánh thức gió' vì vào mùa xuân, hàng trăm loài hoa khoe sắc, hương thơm lan tỏa, giữ cho gió để mùi hương của hoa lá, cây cỏ không bao giờ mất đi, không bị phai nhạt trong khoảng không gian. Có thể nói rằng bản tính của Xuân Diệu được thể hiện độc đáo, vừa là sự ngây thơ, khát khao sở hữu như một đứa trẻ hồn nhiên, vừa là sự táo bạo, mạnh mẽ khi muốn thay đổi cả sự sáng tạo. Tất cả điều đó thể hiện tấm lòng yêu cuộc sống, yêu mùa xuân của Xuân Diệu, nơi sâu thẳm là niềm tiếc nuối và sợ hãi rằng chính bản thân ông không theo kịp nhịp điệu của tạo hóa, không thể trải nghiệm và thưởng thức hết tất cả những điều tuyệt vời trong cuộc sống đầy tươi mới này.
“Của ong bướm hòa mình trong tuần tháng mật
Này đây hoa trong đồng nội xanh tươi
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh hòa mình trong khúc tình si
Và đây là ánh sáng chớp từ hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng tươi mới như một cặp môi gần”
Qua nhận thức mới mẻ, vẻ đẹp thực sự nằm ở những điều bình dị, giản đơn xung quanh cuộc sống hàng ngày chứ không phải ở những cảnh đẹp xa hoa nào đó. Xuân Diệu đã tạo nên một bức tranh về thiên nhiên mùa xuân sống động và hấp dẫn, thể hiện rõ tình cảm sâu sắc, đắm say của ông đối với mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân Diệu được gọi là ông hoàng thơ tình vì mỗi bài thơ của ông, dù vui vẻ hay buồn bã, luôn mang đến một không khí tình cảm, lãng mạn. Trong 'Vội vàng' cũng vậy, trong những khoảnh khắc hứng khởi, đắm chìm và nhiệt huyết nhất khi nhìn nhận vẻ đẹp của mùa xuân, ánh mắt của nghệ sĩ đầy yêu thương, hạnh phúc. Điều đó thể hiện rõ trong từng câu thơ khi hình ảnh thiên nhiên, hầu như mọi cảnh vật đều tận hưởng hòa quyện, lãng mạn và tình cảm, ong bướm hòa mình trong tuần tháng mật. Hoa trong đồng xanh tươi hòa quyện hoàn hảo, lá và cành tơ như nhảy múa, khúc tình si của cặp yến oanh càng làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần phong cách và tươi mới.
Đặc biệt ở câu thơ “Và đây là ánh sáng chớp từ hàng mi” càng làm cho bức tranh mùa xuân trở nên lãng mạn hơn, trong trẻo và ấm áp tình người. Hình ảnh ánh sáng chớp từ hàng mi là một hình ảnh đẹp và lãng mạn, Xuân Diệu tài tình để con người hòa mình vào thiên nhiên, yêu thiên nhiên một cách êm dịu và dễ chịu, có thể là một cô gái trẻ dạo bước trong khu vườn, cả người phủ một tấm nắng nhẹ nhàng, mắt cong vút đầy thu hút. Cũng có thể là nghệ sĩ đang say mê tận hưởng mùa xuân, trong cảm giác mơ mộng, đôi mắt nhắm nghiền khiến ánh sáng từ hàng mi trở nên long lanh. Tóm lại, bằng cách nào đó, Xuân Diệu đã thành công khi mang lại cho độc giả một bức tranh thiên nhiên sống động, tràn ngập sức sống, cả sức sống của thiên nhiên và con người. Là sự hiện thân của tình yêu mùa xuân, tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
Đến câu thơ cuối cùng, triết lý nhân sinh sâu sắc của Xuân Diệu hiện lên tinh tế: “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”. Đối với tác giả, mỗi ngày tỉnh giấc là một niềm vui lớn, như thần, như thánh đến gõ cửa. Xuân Diệu mong mỏi mỗi ngày sống hạnh phúc, tận hưởng cuộc sống bình dị, êm đềm, sống trong vẻ đẹp mùa xuân. Ông trân trọng cuộc sống hiện tại, không mưu cầu những điều xa xôi, cao quý, nhưng thực sự quý trọng từng khoảnh khắc tuổi trẻ trên thế gian.
Những bài văn Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu phải đọc
Câu thơ “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị. Truyền thống, người ta trải nghiệm cảnh sắc thiên nhiên qua thính giác, xúc giác, thị giác. Xuân Diệu lại đưa thêm giác quan vị khác, khi ông cảm nhận mùa xuân không chỉ qua vẻ đẹp mà còn qua hương vị. Sự yêu thích, khao khát về vẻ đẹp mùa xuân khiến ông cảm nhận nó ngon ngọt, muốn “hôn” mùa xuân. Trong cảm xúc sung sướng, hạnh phúc, bất ngờ, tâm trạng của thi sĩ bỗng chốc thay đổi:
“Tôi hạnh phúc nhưng lại vội vã một phần
Tôi không chờ đến nắng hạ mới mà mong ngóng xuân”
Trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân đậm hương vị, Xuân Diệu mơ màng nhưng đột nhiên lại vấp phải nuối tiếc mùa xuân ngay giữa chính mùa xuân. Sự ưu lo, tiếc nuối này thể hiện tấm lòng khao khát và trân trọng mùa xuân, tuổi trẻ của ông. Điều này cũng là cánh cửa mở ra cho những triết lý nhân sinh mới mà tác giả muốn truyền đạt.
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”
Xuân Diệu sâu hiểu quy luật không thay đổi của tạo hóa “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Thời gian lặng lẽ trôi, tuổi xuân của con người héo úa theo năm tháng, không thể chống lại bước đi của thời gian. Tác giả tiếc nuối và than trách về sự hạn chế của cuộc sống, mong muốn thêm thời trẻ đẹp. Nhưng ông cũng nhận ra sự vô ích khiếm nhã, và trong những vần thơ buồn bã:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”,
Ý thức sự ngắn ngủi của cuộc sống, Xuân Diệu coi việc tạo hóa tuần hoàn vô nghĩa khi cuộc đời chỉ một, không thể lặp lại. Tính cách ngông cuồng, dám đứng ngang hàng với vũ trụ, đề cao bản ngã. Xuân Diệu không kìm lòng tiếc cả đất trời, thể hiện sự mất mát sánh ngang với trời đất. Tấm lòng bao la, tham lam tiếc nuối của ông mở ra quy luật tuần hoàn tàn nhẫn của tạo hóa, khuyến khích sống có ý nghĩa hơn, tránh để lại tiếc nuối trong cuộc đời.
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Câu thơ “Mau đi thôi/Mùa chưa ngả chiều hôm” là lời động viên bản thân, thúc đẩy thế hệ trẻ nhanh chóng tận hưởng cuộc sống, những cảnh đẹp, ý vui ngay tại nhân gian. Tấm lòng khát khao, rạo rực của người nghệ sĩ như “muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, đầy say đắm trong tình yêu và mật ngọt của tuổi trẻ.
Lòng người nghệ sĩ muốn tận hưởng càng nhiều, với ý muốn sống hai ba lần chỉ trong một đời người. Tốc độ, vội vã là những điều ông muốn tận hưởng, gấp vài lần. Xuân Diệu biết đủ và sáng suốt khi tìm vẻ đẹp cuộc sống trong nhân gian trần thế, chứ không hão huyền tịm tận chín tầng mây như nhiều người khác.
2. Phân tích Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, đánh giá theo chuẩn số 2
Trong làn sóng Thơ mới, Xuân Diệu không phải là người đầu tiên đứng ở tiền phong, nhưng khi xuất hiện với những tác phẩm độc đáo, ông trở thành “nhà thơ mới nhất”. Bài thơ “Vội vàng” trong tập “Thơ thơ” (1938) không chỉ thể hiện sâu sắc lòng yêu đời và khao khát sống mạnh mẽ, mà còn kết hợp cảm xúc và triết lý, sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả bày tỏ mong muốn giữ lại vẻ đẹp, hương sắc của cuộc sống:
“Tôi muốn dập tắt ánh nắng
Cho màu sắc không bao giờ phai màu;
Tôi muốn giam giữ làn gió
Để hương thơm không lạc mất.”
Trong bốn câu đầu tiên, thông qua điệp ngữ “tôi muốn” và cấu trúc câu tinh tế, tác giả nhấn mạnh chủ thể và khát vọng mạnh mẽ, tôn vinh cái tôi cá nhân. Chủ thể trữ tình thể hiện ước muốn mạnh mẽ thông qua những hình ảnh độc đáo như “tắt nắng”, “buộc gió”, làm nổi bật lòng táo bạo muốn giữ lại “màu không nhạt, hương không bay”. Điệp ngữ “cho, đừng” và cấu trúc câu ở câu thứ 2, 4 thể hiện mục đích đẹp đẽ của nhà thơ, níu giữ vẻ đẹp, hương sắc cuộc đời. Chúng ta thấy được ước muốn lãng mạn của thi sĩ yêu đời, cuộc sống sôi nổi.
Ở đoạn thơ tiếp theo, tác giả tái hiện bức tranh cuộc sống như thiên đường trên đất:
“Ong bướm lượn mật trong tuần tháng;
Hoa đồng nội rực rỡ;
Lá cành tơ phơ phất;
Yến anh hát tình si.
Ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui gõ cửa;
Tháng giêng như môi gần;
Tôi sung sướng, nhưng vội vàng một nửa:
Chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Điệp khúc “Này đây” xuất hiện liên tục, mang đến âm hưởng vui tươi, rộn ràng cho đoạn thơ. Nó gắn liền với ngôn từ, hình ảnh gợi cảm thông qua liệt kê về cảnh sắc thiên nhiên: “hoa đồng nội”, “lá cành tơ”, “yến anh… tình si”, “ánh sáng… hàng mi”, “buổi sớm… thần vui gõ cửa”. Tác giả cảm nhận cuộc đời bằng đôi mắt trẻ trung, “xanh non”, “biếc rờn”.
Những bài phân tích tốt nhất về thơ 'Vội vàng' của Xuân Diệu
Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu toát lên sự sống động thông qua nghệ thuật ẩn dụ, cảm nhận tinh tế về thời gian như “tuần tháng mật”. Mỗi ngày mới là sự xuất hiện của “thần Vui gõ cửa” - biểu tượng của bình an và niềm vui trong cuộc sống. Nhờ nhân hóa, tác giả tái hiện vẻ đẹp của vạn vật tràn ngập sức sống. Đặc biệt, qua cảm nhận độc đáo, Xuân Diệu sáng tạo hình ảnh “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” để mô tả vẻ đẹp tươi mới, quyến rũ của mùa xuân. Tác phẩm chứng kiến sự giao cảm mãnh liệt và tình yêu của nhà thơ với cuộc sống.
Trong văn hóa trung đại, thiên nhiên được coi là mẫu chuẩn của cái đẹp. Đối với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực đẹp: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp phản ánh cuộc sống trần thế, với vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy sức sống. Điều này thể hiện tình yêu, sự quấn quýt và giao hòa của nhà thơ với cuộc sống. Bức tranh thiên nhiên được nhìn nhận qua đôi mắt “xanh non, biếc rờn”, thể hiện niềm say đắm và tình yêu của Xuân Diệu đối với cuộc sống. Tuy nhiên, nhà thơ bất ngờ tiếc nuối với dòng thơ cuối cùng:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Dấu chấm giữa câu tạo nên hai nửa của câu thơ như một bản lề, mở ra hai tâm trạng. Nhà thơ không chỉ hân hoan trước vẻ đẹp hấp dẫn của thiên nhiên mà còn vội vã trước sự trôi chảy của thời gian. Điều này thể hiện thái độ trân trọng từng khoảnh khắc của nhà thơ đối với hiện tại.
Vẻ đẹp nơi thế gian mở ra nhờ tình yêu cuộc sống sâu sắc, song đồng thời khám phá ra những nuối tiếc, lo âu. Xuân Diệu nhận thức thời gian có thể làm phai tàn tất cả, cả sự sống và cái đẹp:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng kỹ thuật đối lập mạnh mẽ: “xuân đương tới - xuân đương qua”, “xuân còn non - xuân sẽ già”, “lòng tôi rộng - lượng trời cứ chật”, “còn trời đất - chẳng còn tôi mãi”. Sự đối lập này tạo nên nhịp thơ tranh luận, thể hiện triết lí về thời gian trôi qua không trở lại. Xuân Diệu không chỉ nhạy cảm với thời gian mà còn ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, mang đến tình cảm sâu lắng về sự mong manh và quý giá của cuộc sống.
Trong bảy câu thơ kế tiếp của đoạn thơ thứ ba, tác giả đưa ra cảm nhận độc đáo về thời gian:
“Hương tháng, năm dần chia xa mùa,
Khắp sông, núi tiễn biệt những đóa…
Gió nhẹ lồng lộng trong lá xanh biếc,
Có lẽ hờn giận nỗi phải rời bỏ?
Chim hòa nhạc bỗng nghẹn tiếng cao lời,
Có lẽ sợ hương đêm sẽ phai mờ?
Và từ đây, ôi! Và từ đây nữa…”
Qua cảm nhận tinh tế, tác giả một lần nữa tạo nên hình ảnh độc đáo bằng cách sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tác giả đánh thức các giác quan khi cảm nhận thời gian: mùi - “hương tháng năm”, thị giác và vị giác - “dần chia xa mùa”. Câu thơ đã thể hiện sự tương tác giữa các giác quan một cách tinh tế, với sự kết hợp giữa mùi và vị, tạo nên một cảm giác phong phú về thời gian và không gian. Tác giả mở rộng cảm nhận không chỉ về thời gian mà còn về không gian: “Khắp sông, núi tiễn biệt những đóa…”. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa và câu hỏi tác giả sử dụng đã làm nổi bật sự phai tàn, chia phôi trong từng tạo vật: “gió lồng lộng trong lá xanh biếc”, “hờn giận nỗi phải rời bỏ”, “chim nghẹn tiếng cao lời” vì “sợ hương đêm sẽ phai mờ”. Giọng điệu thơ thể hiện tâm trạng tiếc nuối và hối thúc một cách sâu sắc, đồng thời thể hiện triết lí về sự vội vàng, hối thúc trong cuộc sống.
“Hãy đi nhanh! Mùa chưa nhấc bóng chiều,
Muốn ôm trọn
Khởi đầu mới nở mành mơn mởn;
Ham muốn làm mây bay và gió lượn,
Chìm đắm cùng cánh bướm, đắm chìm trong tình yêu,
Mê mải trong một nụ hôn phong cách
Cùng non nước, cây cỏ rực rỡ,
Cho mùi thơm thơm, dẫn dắt ánh sáng
Đầy ắp vẻ tươi mới;
- Ôi! Xuân hồng ơi, muốn thưởng thức ngay này!”
Đối với thi sĩ Xuân Diệu, sống vội vàng trước hết là sống với tốc độ phi thường, đua theo thời gian, trước đón nó: Hãy đi nhanh! Mùa chưa nhấc bóng chiều. Câu cầu giúp tạo nên lời kêu gọi hối thúc, thúc đẩy mọi người sống cuộc sống nhanh chóng, hết mình. Sống vội vàng cũng là sống đầy đủ, mãnh liệt. Điệp khúc “Muốn”: khát khao mạnh mẽ của nhà thơ và sự gợi cảm tình yêu cuộc sống của mọi người. Thi sĩ đã sử dụng loạt động từ ngày càng mạnh mẽ: 'ôi', 'ham muốn', 'chìm đắm', 'mê mải', 'thưởng thức', thể hiện sự cảm nhận cuộc sống từ trái tim, bản chất, nhấn mạnh triết lí sống sâu sắc, mãnh liệt và toàn diện. Đi kèm với các động từ là các danh từ mô tả vẻ đẹp tươi trẻ, tính từ mô tả vẻ xuân sắc: “sự sống mới… mơn mởn”, “mây bay”, “gió lượn”, “cánh bướm”, “tình yêu”, “non nước”, “cây cỏ rực rỡ”, “tươi mới”: mô tả một thế giới tươi đẹp và tình cảm. Các động từ miêu tả trạng thái tăng tiến: “chìm đắm”, “mê mải”, “thưởng thức” thể hiện cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, say đắm. Nhịp thơ nhanh, hối hả tạo ra sự hấp dẫn, đồng thời phản ánh tâm hồn sôi động, hối hả của nhà thơ. Đoạn thơ như phản ánh nhịp đập con tim và nhịp thở của thi nhân, hơi thở hối hả, cuồng nhiệt để yêu thương, để ngập tràn trong cuộc sống. Có lẽ, với Xuân Diệu, sống vội vàng là cách biến cuộc sống có hạn trở thành vô tận, giống như tâm niệm:
“Chẳng bao giờ phôi pha, chỉ cần một phút lộng lẫy
Hơn là trăm năm sống âm thầm”
Tất cả niềm đam mê đối với cuộc sống và khao khát trọn vẹn đã được hiện hữu tại câu cuối cùng: “- Ôi mùa xuân hồng, ta muốn làm chủ ngươi!”. Hình tượng ẩn dụ “xuân hồng” mô tả một cuộc sống đẹp đẽ, hấp dẫn như một cô gái trẻ giữa tuổi xuân. Động từ “làm chủ” thể hiện mong muốn thống trị, chiếm lĩnh mọi vẻ đẹp của hương sắc cuộc sống. Đó là khao khát mới mẻ, chưa từng xuất hiện trong văn hóa trung đại.
Bài thơ mang đến quan điểm sống hiện đại, tích cực. Đó là triết lý sống vội vàng, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc và sống đầy đủ. Bài thơ kết hợp tinh tế giữa cảm xúc và lý trí. Với những sáng tác tinh tế, Xuân Diệu xứng đáng là người đứng đầu phong trào thơ mới.
3. Bài văn phân tích bài thơ vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 3 (Chuẩn)
Phong trào thơ mới bắt đầu từ những năm 1932-1941, mặc dù chỉ kéo dài chưa đầy một thập kỷ nhưng nó đã là giai đoạn quan trọng, đánh dấu sự phát triển của nhiều tài năng trẻ với những sáng tác xuất sắc về cả hình thức và nội dung. Trong số đó, Xuân Diệu là ngôi sao sáng nhất, được coi là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” với giọng thơ đặc sắc, hùng hồn. Ông đắm chìm trong niềm đam mê với tình yêu, bao gồm cả tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời mang niềm tin sâu sắc về mùa xuân và tuổi trẻ. Vội vàng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Diệu, thể hiện rõ sự yêu thương cuộc sống, sự nhạy cảm tinh tế và quan điểm về mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu.
Vội vàng (1938) xuất hiện trong tập Thơ thơ như một khu vườn rực rỡ, tràn ngập hương sắc, hương thơm của hoa cỏ, là bản giao hưởng đa dạng cảm xúc từ niềm vui, ngọt ngào, đến sâu sắc, say đắm trong tình yêu của Xuân Diệu. Vội vàng thực sự là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt của tác giả đối với cuộc sống, mang đến những trải nghiệm cảm xúc mới mẻ, độc đáo, từ “nguồn sống phong phú chưa từng xuất hiện trong thế giới yên bình này”.
“Tôi mong muốn tắt đi ánh nắng
Để màu sắc không mất đi vẻ đẹp
Tôi ao ước hạn chế cơn gió
Để hương thơm không bay đi”
Trong khổ thơ đầu tiên, tác giả bày tỏ lòng khát khao mạnh mẽ, nồng cháy với các từ ngữ “Tôi mong muốn…”, tạo nên nhịp thơ nhanh, hối hả. Nhà thơ muốn giữ lại mọi vẻ đẹp tươi mới của cuộc sống, là niềm khao khát mạnh mẽ, đầy dũng cảm. Xuân Diệu muốn giữ lại những điều tươi đẹp nhất của tự nhiên, như ánh sáng dịu dàng và ấm áp của mùa xuân, hương thơm nồng nàn, phả hồn trong gió. Thông qua mong muốn đầy độc đáo đó, ta thấy rõ cái tôi tràn đầy tình cảm của người thi sĩ, đầu tiên là cái “tôi” mạnh mẽ, táo bạo, dám đối đầu với tạo hóa, chống lại dòng chảy của vũ trụ để giữ lại những vẻ đẹp mà tâm hồn khát khao. Đồng thời, cái “tôi” trong sáng, hồn nhiên, ngây thơ khi đứng trước những điều mà nó yêu thương và trân trọng.
Hòa quyện cả hai yếu tố đó tạo nên một linh hồn thơ đặc sắc của Xuân Diệu, gợi lên ấn tượng sâu sắc, làm cho độc giả càng cảm nhận rõ tình yêu của thi sĩ đối với vẻ đẹp tuyệt vời trong vũ trụ, một tình yêu mãnh liệt, sâu sắc đến tận cùng. Đồng thời, nó cũng thể hiện quan điểm mới của Xuân Diệu về cuộc sống và vẻ đẹp, khi với nhà thơ, vẻ đẹp không chỉ xuất hiện ở nơi nào đó xa xôi, mà ngay bên cạnh chúng ta, trong những điều mà con người thường xuyên bỏ qua, không để ý.
Sau khi hiểu rõ về quy luật tạo hóa và ý thức về sự ngắn ngủi của cuộc đời, Xuân Diệu ước mong tận hưởng những vẻ đẹp giản dị là đặc ân quý báu. Thi sĩ không muốn lãng phí bất kỳ khoảnh khắc nào, thậm chí là ích kỷ muốn giữ lại tất cả để một mình thưởng thức. Tinh thần ngông cuồng, táo bạo và phi lý của Xuân Diệu bắt nguồn từ những quan điểm nhân sinh sâu sắc: Cuộc sống ngắn ngủi và vẻ đẹp chỉ tồn tại tại trần gian, nên ta phải tận hưởng đầy đủ.
Nhận thức và khao khát cháy bỏng về vẻ đẹp của tạo hóa, Xuân Diệu nhanh chóng tìm giải pháp. Ông quyết định hưởng thụ, nắm bắt ngay lúc còn trẻ, và tận hưởng những vẻ đẹp tuyệt vời mà tạo hóa ban tặng một cách thoải mái, không hối tiếc. Tâm trạng này rõ ràng qua tám câu thơ tiếp theo, mở ra bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn ngập hương sắc, đồng thời thể hiện tư duy của tác giả về sự hữu hạn của cuộc sống con người và vô hạn của vũ trụ: Hối hả, khao khát, mong muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp, và hạnh phúc tột cùng trước vườn xuân tuyệt vời.
“Của ong bướm, tuần tháng mật ở đây
Hoa của đồng nội xanh rì đây
Lá của cành tơ phơ phất ở đây
Yến anh, khúc tình si đều ở đây
Và ánh sáng chớp hàng mi ở đây
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Trong những câu thơ này, ta dễ nhận thấy niềm vui, hân hoan tột cùng của tác giả khi khám phá một thiên đường cuộc sống ngay bên cạnh. Từng câu thơ như là những bản nhạc vừa sôi động vừa dịu dàng, truyền đạt cảm xúc đắm chìm, sự hạnh phúc của tình yêu và tuổi trẻ, của một mùa xuân đang tràn đầy sức sống. Điệp khúc “ở đây…” đem lại nhịp thơ sôi nổi, thể hiện niềm vui bất ngờ và hạnh phúc khi nhận ra món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng.
Bức tranh mùa xuân tươi đẹp mở ra với hình ảnh đôi 'ong bướm' ngập tràn hạnh phúc, sâu đậm trong mật ngọt của tình yêu, như đôi tình nhân trẻ quấn quýt trong tuần trăng mật. Hoa xuân kết hợp với sắc xanh của nội cỏ tạo nên bức tranh rực rỡ, hài hòa và cân đối. 'Lá của cành tơ phơ phất' gắn liền, tình tứ và lãng mạn, tạo nên không khí tươi mới và tràn ngập hương sắc. Xuân Diệu thêm chút ánh sáng dịu dàng, chan hòa, và ấm áp như sương, làm bức tranh trở nên lãng mạn hơn, tràn đầy sức sống. Câu thơ 'Và này đây ánh sáng chớp hàng mi' tạo cảm giác một điều gì đó tinh tế và gợi cảm, làm tăng thêm vẻ hấp dẫn cho bức tranh.
Câu thơ 'Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa' thể hiện triết lý sống mới của Xuân Diệu, đánh giá cao mỗi ngày sống là một niềm vui và hạnh phúc. Tác giả trân trọng điều này và thể hiện lòng biết ơn. Cuối cùng, câu thơ 'Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần' chuyển đổi cảm giác tinh tế từ thị giác, thính giác đến xúc giác. Xuân Diệu miêu tả sự hòa quyện, khát khao thưởng thức mùa xuân như một người sành ăn đắm chìm trong hương vị của cuộc sống. So sánh mùa xuân với 'cặp môi gần' tạo ra không khí lãng mạn và tình tứ, thể hiện sự đam mê và khao khát tình yêu.
Vội vàng của Xuân Diệu thể hiện quan điểm mới về thời gian.
Sau những cảm xúc thăng hoa, Xuân Diệu vội vàng thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Tuy nhiên, đột ngột, ông khựng lại với nỗi lo âu và tiếc nuối. Bức tranh xuân rực rỡ khiến ông đắm chìm, nhưng cũng làm ông lo lắng về sự trôi qua nhanh chóng của thời gian. Tình cảm của tác giả được thể hiện qua những vần thơ, khiến người đọc cảm nhận được nỗi sợ và tiếc nuối của Xuân Diệu.
'Xuân sắp đến, tức là đã đi qua,
Xuân còn trẻ, tức là sẽ già đi,
Và khi xuân hết, ý là tôi cũng mất.
Lòng tôi lớn, nhưng vận mệnh trời hẹp,
Không để thời trẻ kéo dài cho nhân gian,
Nói gì nữa về việc xuân vẫn lặp lại,
Nếu không phải là gặp nó một lần nữa.
Trời đất còn, nhưng tôi sẽ không còn mãi mãi,
Vì vậy, tôi hối tiếc cả đất trời.'
Xuân Diệu nhận ra một quy luật tàn nhẫn của tạo hóa, mùa xuân đến rồi sẽ đi, và cuộc đời cũng vậy, con người trải qua thời son trẻ nhưng rồi cũng già đi và trở về với cát bụi. 'Lòng tôi lớn, nhưng vận mệnh trời hẹp' - oán trách rằng cuộc sống ngắn ngủi, không đủ để tận hưởng vẻ đẹp của trần gian. Dù mùa xuân tươi đẹp luôn quay về, nhưng người chỉ sống một lần và không thể trải nghiệm mùa xuân đẹp đẽ lần nào khác. Tác giả thể hiện sự bất mãn trước sự thoáng qua của thời gian và tiếc nuối về sự hữu hạn của cuộc sống.
Tuy Xuân Diệu nhận ra sự tàn nhẫn của thời gian và cuộc sống, nhưng ông là một tác giả tích cực. Thay vì oán trách, ông đề xuất giải pháp mới: hòa mình vào thưởng thức mùa xuân một cách trọn vẹn nhất. Cuộc sống ngắn ngủi, nhưng ông muốn tận hưởng mỗi khoảnh khắc, không để bản thân bị buồn bã vì sự thoáng qua của thời gian.
'Hãy đi nhanh! Mùa chưa chuyển chiều hôm,
Tôi muốn om
Cả sự sống mới bắt đầu nảy nót;
Tôi muốn mây đi và gió luồn,
Tôi muốn mê mải với tình yêu cánh bướm,
Tôi muốn chìm đắm trong một cái hôn dài
Của non nước, cây cỏ rực rỡ,
Để hòa mình vào mùi thơm, ánh sáng
Của thời tươi tắn;
- Ôi xuân hồng, tôi muốn đắm chìm vào người!'
Ngay bây giờ, tận hưởng bữa tiệc mùa xuân trước mắt, Xuân Diệu rơi vào khao khát mãnh liệt, vồ vập, sợ rằng bữa tiệc sẽ tan biến chỉ vì chậm một chút. Những động từ mạnh mẽ như “ôm”, “riết”, “thâu” cùng với ước muốn dữ dội qua từng cử chỉ, nhấn mạnh khao khát nuốt trọn vẻ đẹp của mùa xuân. Xuân Diệu không chỉ muốn thưởng thức một lần, mà muốn ôm trọn mọi khoảnh khắc của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Ông thức dậy tất cả giác quan, hòa mình vào bữa tiệc của thiên nhiên để tận hưởng đầy đủ hương thơm, ánh sáng, ôm cả cây cỏ, để không nuối tiếc gì hơn. Đây là sự thông minh và nhân văn của một người nghệ sĩ, mở ra những suy nghĩ mới và đầy tri thức.
Vội vàng của Xuân Diệu là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện quan niệm nhân sinh mới về cuộc đời người nghệ sĩ và đồng thời bày tỏ tình cảm mãnh liệt đối với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Xuân Diệu đã mang đến không khí mới mẻ, lãng mạn và vẫn giữ được đặc trưng của văn hóa Việt. Tác phẩm này mở ra một chân trời mới cho phong trào thơ mới và làm phong phú thêm di sản văn hóa của Việt Nam.
4. Phân tích Vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 4 (Chuẩn):
“Thơ của Xuân Diệu là nguồn sống phong phú, là cảm xúc chưa từng xuất hiện ở đây. Ông ta đắm chìm trong tình yêu, tận hưởng cuộc sống với tốc độ nhanh, sống đầy đủ, muốn thưởng thức mọi khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc đời” (Trích “Thi nhân Việt Nam”). Đánh giá của Hoài Thanh làm nổi bật những đặc sắc chủ yếu trong sáng tác của Xuân Diệu, gương mặt độc đáo và đóng góp tích cực cho phong trào thơ Mới. Một trong những tác phẩm thể hiện điều này rõ nhất là “Vội vàng”. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, đam mê sống và quan điểm tích cực về cuộc sống của tác giả.
Trước hết, bài thơ “Vội vàng” đặt ra ý nguyện, tâm thế và mong muốn hành động của tác giả trước sự trôi chảy của thời gian:
“Muốn tắt nắng giữ lại vẻ màu tươi tắn;
Muốn buộc gió giữ lại hương thơm không bay mất.”
Đối mặt với chu kỳ “một khi đi sẽ không quay lại” của dòng thời gian, Xuân Diệu muốn giữ lại và nắm bắt từng khoảnh khắc bằng cách muốn “tắt nắng” để màu sắc không phai nhòa, muốn “buộc gió” để hương thơm không bay đi. Dòng tâm hồn “Muốn” lặp lại hai lần nhấn mạnh ý nguyện sâu sắc của cái “tôi”, khao khát bảo tồn vẻ đẹp hồn nhiên của thiên nhiên; đồng thời làm nổi bật tâm hồn của một nhà thơ tràn đầy tình yêu cuộc sống, say mê với vẻ đẹp của tự nhiên. Tình yêu đầy nồng thắm và mãnh liệt này được thể hiện rõ trong những câu thơ sau:
“Ong bướm hòa mình trong tuần tháng mật ngọt ngào;
Hoa nở rộ đẹp như mảnh sắc tinh khôi;
Lá xanh mướt như bản hòa nhạc phô diễn;
Yến anh hòa cao giai điệu tình yêu;
Ánh sáng chớp mắt rọi hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui vẫn nhẹ nhàng gõ cửa;
Tháng giêng tươi đẹp như đôi môi gần kề;
Trái tim tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ đợi nắng hạ mới hoài xuân.”
Qua biện pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp nhịp điệu thơ nhanh và sôi động, mọi âm thanh, mọi sắc màu, hình ảnh của bức tranh thiên nhiên hiện lên trước mắt người đọc một cách sống động. Từ điệp từ “Này đây” vang lên đầy sự mê mẩn, thể hiện mọi giác quan của nhà thơ đều bừng tỉnh để đón nhận, để thưởng thức vẻ đẹp của tạo hóa, của đất trời trong sức xuân và sắc xuân. Đó là những vẻ đẹp hữu hình như “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ phơ phất”. Cũng là vẻ đẹp vô hình như khúc ca tình yêu mang âm điệu say mê cuồng nhiệt của đôi “yến anh”, là nguồn sáng vội vã lóe lên qua hàng mi,.... Đặc biệt, Xuân Diệu đã so sánh “tháng giêng” - khái niệm thời gian vô hình như “cặp môi” – sự vật cụ thể trong mối quan hệ “ngon” – “gần” để mang lại một cảm nhận vô cùng độc đáo, mới mẻ, khiến cho bức tranh thiên nhiên nơi trần gian hiện lên đẹp đẽ, tươi mới, đầy sức sống như “một thiên đường trên mặt đất”. Nhà thơ sử dụng tất cả giác quan để thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật, thiên nhiên mà vẫn giữ nguyên ý thức về sự trôi chảy của thời gian: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Do đó, ông đắm chìm, cuồng nhiệt với cảnh sắc đất trời nhưng vẫn không ngừng chiêm nghiệm về dòng thời gian trôi, về tình yêu và tuổi trẻ:
“Xuân đang đến, có nghĩa là xuân đã trôi qua,
Xuân còn non, có nghĩa là xuân sẽ già,
Nhưng khi xuân kết thúc, đồng nghĩa với việc tôi cũng sẽ mất đi.
Lòng tôi rộng lớn, nhưng vẫn bị hạn chế bởi lượng trời chật hẹp,
Không cho phép thời trẻ của nhân gian kéo dài;
Nói làm gì rằng xuân vẫn lặp lại,
Nếu tuổi trẻ không thể trở lại lần thứ hai.
Còn trời đất vẫn tồn tại, nhưng tôi không thể ở lại mãi mãi,
Vì vậy, lòng bâng khuâng khi tôi nuối tiếc cả trời đất”
Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu ngắn gọn
Là một nhà thơ với thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, Xuân Diệu không chỉ nhận thức được quy luật tuần hoàn của dòng thời gian: “Xuân tàn, hạ đến, thu đi, đông đến” mà còn hiểu rõ về “phép biện chứng” mang tính tuyến tính, sự “một khi đi sẽ không bao giờ trở lại” của từng phút giây. Qua cách cảm nhận: “xuân đang tới” – “xuân đang qua”, “xuân còn non” – “xuân sẽ già”, dòng chảy vô hình của thời gian đã được khắc họa rõ nét, khiến cho dù nhà thơ đang trải nghiệm mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống nhưng chính là mùa xuân đang tiến gần “sẽ già”, sẽ tàn phai, sẽ héo úa. Điều đặc biệt nhất trong quan niệm của Xuân Diệu chính là thời gian vũ trụ không đồng bằng với thời gian của đời người, tức là “xuân qua” rồi xuân sẽ “đến” lại trong chuỗi vòng lặp của đất trời, nhưng tuổi trẻ, đời người chỉ “thắm lạị” một lần. Cho nên, ông cho rằng điều quý giá nhất của con người chính là tuổi trẻ và tình yêu. Và từ đó, “ông hoàng thơ tình” luôn nuối tiếc mùa xuân, nuối tiếc tuổi trẻ bằng lòng ham sống, lòng yêu đời mãnh liệt kèm theo quan niệm sống “vội vàng” và chủ động đua với thời gian:
“Ta muốn đắm chìm
Trong hơi thở mới bắt đầu rói ren
Ta muốn giăng mây và quyện gió vờn
Ta muốn đắm chìm trong ánh hồng của tình yêu
Ta muốn lưu giữ trong một nụ hôn nồng nàn”
Bắt đầu từ lời nói “Ta muốn”, âm nhạc vang lên đầy hứng khởi, theo dõi chuỗi từ ngữ leo lên: “đắm chìm”, “giăng”, “đắm chìm”, “lưu giữ” làm tôn lên tư duy tích cực, tận hưởng mọi khoảnh khắc của cuộc sống ở đỉnh cao nhất, sự “tôi” tràn đầy tình cảm. Sức sống mãnh liệt, đam mê của tác giả là nguồn động viên để thúc đẩy Xuân Diệu sống “vội vàng, sống cuống quýt” (theo cách mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh mô tả), nhưng tinh thần nhanh chóng đó không mang theo tính tiêu cực, vì nó luôn liên quan chặt chẽ với niềm vui sống và tâm hồn lạc quan của người sáng tác. Đây chính là triết lý sống tích cực, tiên tiến và mang giá trị giáo dục sâu sắc đối với mỗi con người.
Vậy là, thông qua việc phân tích bài thơ Vội vàng, chúng ta có thể nhận thức được tài năng của thi sĩ Xuân Diệu qua cách sử dụng ngôn từ và ứng dụng thành công các biện pháp nghệ thuật. Tất cả những yếu tố này kết hợp với nhau một cách hài hòa, tinh tế, góp phần hình thành hình ảnh của nhân vật trữ tình với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt cùng niềm ham sống, lòng yêu đời cuồng nhiệt và điều quan trọng nhất là quan niệm sống “vội vàng” chạy đua với thời gian để bắt kịp những khoảnh khắc đẹp nhất của tuổi trẻ và tình yêu.
5. Phân tích bài Vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 5 (Chuẩn)
“Vội vàng Xuân Diệu” là biểu tượng của sự sống tràn đầy niềm vui, hân hoan đối diện với mỗi dấu hiệu của sự tồn tại. Tuy nhiên, nó cũng là sự lo âu, bồi hồi trước những bước chuyển của thời gian đối với Xuân Diệu. Mỗi lúc yêu thương cuộc sống, tác giả càng cảm nhận mạnh mẽ sự phai tàn của vẻ đẹp và sự sống. Biết rõ rằng không thể thay đổi quy luật trôi chảy của thời gian, Xuân Diệu đã quyết định sống vội, sống gấp để ôm trọn những khoảnh khắc tươi đẹp nhất.
Xuân Diệu thường hiện lên với cái tôi thơ phá cách, độc đáo và tràn đầy sáng tạo, tạo nên một dấu ấn không thể nhầm lẫn trong thơ ca Việt Nam. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu ngũ ngôn, đánh bại sự “lệch nhịp” với toàn bộ tác phẩm:
“Tôi muốn nắng tắt đi
Để màu không phai nhòa
Tôi muốn giam giữ gió lại
Cho hương không bay đi”
Ngay từ khổ thơ đầu tiên, Xuân Diệu thể hiện lòng khao khát mạnh mẽ và đầy mạo hiểm. Việc muốn kiểm soát nắng và gió, những yếu tố thuộc về tự nhiên và hoạt động theo quy luật tự nhiên, có vẻ đầy phiêu lưu và thách thức. Nhưng sau tất cả, bản chất của khao khát mạnh mẽ và phiêu lưu là tình yêu cuộc sống, sự trân trọng và khát khao mãnh liệt. Xuân Diệu muốn nắng tắt để giữ cho màu không phai, muốn giữ gió lại để hương không bay đi, là cách ông muốn kỷ niệm những vẻ đẹp tinh khôi của cuộc sống, để mãi mãi giữ lại những khoảnh khắc tươi đẹp.
Hướng dẫn Chi tiết Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Với đôi mắt “xanh non biếc rờn” và tình yêu cuồng nhiệt đối với cuộc sống, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện ra những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất trong thế giới xung quanh:
“Của ong bướm bay tuần tháng mật
Này hoa cỏ đồng xanh rì
Này lá cành tơ phơ phất
Của yến anh hòa mình trong khúc tình si
Và ánh sáng chớp nhẹ hàng mi”
Bức tranh sự sống hiện lên đầy màu sắc với hình ảnh, màu sắc, âm thanh và những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” mang đến sự hứng khởi, say mê khi nhà thơ giới thiệu về vẻ đẹp động ngộ của cuộc sống – nơi ông đắm chìm trong tình yêu mãnh liệt. Hình ảnh của ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng không chỉ là những hình ảnh tươi mới của cuộc sống hàng ngày, mà qua cái nhìn lãng mạn và tình yêu thương của nhà thơ, chúng trở nên rực rỡ, hấp dẫn như những khung cảnh thiên đàng.
Thiên nhiên, sự sống trong thơ của Xuân Diệu luôn rạng ngời, hấp dẫn như lời mời gọi không ngừng. Nét độc đáo nhất là cách ông so sánh mùa xuân như 'Tháng giêng ngon như cặp môi gần'. Trải nghiệm của nhà thơ biến mùa xuân thành điều ngon ngọt, quyến rũ như đôi môi gần. Việc đặt con người làm tiêu chí đánh giá vẻ đẹp tự nhiên không chỉ thể hiện sự sáng tạo của ông mà còn khẳng định quan điểm mới về sáng tác. Xuân Diệu đặt con người ở trung tâm vũ trụ và khẳng định con người chính là tiêu chí của mọi vẻ đẹp.
Với trái tim luôn đỏ rực, bốc cháy tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu luôn sống trong tâm trạng lo sợ, lo âu trước những bước đi của thời gian. Sự yêu thương và trân trọng cuộc sống càng cao, ông càng sợ nó sẽ phai nhạt, tan biến trong cái vô hình. Ngay cả khi mùa xuân đang tươi non, ông cũng nhìn thấy sự tàn phai, mất mát:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Nhưng khi xuân hết, đồng nghĩa với sự mất mát
Lòng tôi rộng lớn nhưng vô hình lực lượng trời lại chật chội
Không để thời gian kéo dài thanh xuân của nhân gian”
Xuân Diệu với tầm nhìn nhạy bén, phát hiện dấu hiệu của sự phai tàn ngay cả khi cuộc sống đang tươi tắn. Mùa xuân mới bắt đầu, nhưng trong vẻ đẹp của thời tươi ấy, đã chứa đựng nguy cơ tàn phai, mất mát. Xuân đến và qua đi, nhưng tình yêu và tuổi trẻ cũng sẽ theo đuổi đến suốt cuộc đời. Xuân Diệu chọn sống “vội vàng” để ôm trọn những khoảnh khắc quý giá của cuộc sống, của tình yêu, và để khắc sâu ý nghĩa vào mỗi khoảnh khắc ngắn ngủi ấy.
“Ta muốn ôm
Chìm đắm trong sự sống mới bắt đầu rực rỡ
Ta muốn khuấy động mây và hòa mình vào làn gió
Ta muốn đắm chìm cùng cánh bướm trong tình yêu
Ta muốn thấu hiểu qua một cái hôn sâu đậm
Và muốn hòa mình vào vẻ đẹp của non nước, cây cỏ rạng ngời
Xuân Diệu sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ như “Ôm, khuấy động, đắm chìm” để thể hiện ham muốn chiếm đoạt những vẻ đẹp của thời tươi. Trước sự không thể ngừng chuyển động của thời gian, hãy sống đầy đủ, sống hết mình, yêu hết lòng để không留下 hối tiếc. Quan niệm “vội vàng” của Xuân Diệu là lời khuyên chân thành, đầy tình cảm dành cho người đọc: Hãy sống ý nghĩa, sống hết mình trong cuộc đời này và đừng để thời gian trôi qua vô ích.
Bài thơ khép lại bằng câu thơ đầy cảm xúc “Hỡi xuân hồng, ta muốn nắn chặt lấy em”. Câu thơ là biểu tượng của tình yêu và sáng tạo của nhà thơ, “xuân hồng” không chỉ gợi lên hình ảnh của mùa xuân mà còn mang đến màu sắc tươi mới, hấp dẫn. “Nắn chặt” thể hiện sự chiếm đoạt mạnh mẽ. Nếu xuân hồng là điểm đẹp nhất và quyến rũ nhất của cuộc đời, nhà thơ muốn giữ chặt để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của thế giới.
Qua “Vội vàng”, nhà thơ Xuân Diệu không chỉ thể hiện tình yêu sâu sắc với cuộc sống mà còn tinh tế truyền đạt những triết lí sống sâu sắc. Bài thơ này không chỉ làm xao lạc trái tim người đọc hiện đại mà còn là di sản vô song, là nguồn cảm hứng về triết lý sống đầy ý nghĩa.