Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa thiêng” (1940).
Chủ đề
Sự tuyệt vời của cảnh thiên nhiên “trời rộng sông dài”. Đồng thời, cảm xúc về sự nhỏ bé, vô nghĩa của cuộc đời con người.
Thể loại: Thất ngôn trường thiên (bài thơ mang dáng vẻ của thơ Đường).
Sơ đồ: 3 đoạn,
Phần 1
Bức tranh về cảnh vật trên dòng sông và sự tư tưởng, trầm ngâm của tác giả.
Hình ảnh của chiếc thuyền và những cành củi khô trôi trên dòng nước u ám đã khiến nhà thơ nhớ đến cuộc sống nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn của con người giữa biển đời. Hình ảnh “thuyền quay về dòng nước cũ, buồn về mười phương” gợi lên cảm giác chia ly.
Trong dòng chảy của tình cảm chủ đạo này, hình ảnh của thuyền và nước không thể tách rời. Nhưng giờ đây, chúng lại xa lạ lạnh nhạt với nhau.
Chiếc thuyền trôi theo dòng nước mặc kệ
Thuyền quay về dòng nước cũ, buồn chán mặc trăm đường.
“nước lại buồn” : dòng sông đã đầy bi ai và hiện tại, cả nước cũng đắng cay...
Từ ngữ Hán Việt “Tràng giang” mang lại hơi thở của thơ cổ Đường, đặc trưng cho thời kỳ cổ điển. Trung tâm của đoạn thơ này là “Một cành khô lẻ loi mắc dòng”.
Từ “dạt” được sử dụng rất đắt. Bởi “dạt” cho ta thấy nét thân phận bị đẩy đưa ngoài ý muốn, nên nỗi buồn của nhà thơ là nỗi buồn “điệp điệp', chồng chất.
Phần 2 và 3
Sự hoang vắng của cảnh vật và tâm trạng của nhà thơ.
Cảnh vật trong phần thơ thứ hai trở nên hoang vắng, quạnh quẽ. Mọi vật trở nên tiêu sơ, trơ trọi (đìu hiu). Mọi thứ như sắp khép lại của một buổi chợ chiều (vãn chợ chiều). Trong cái không gian ba chiều {lên, xuống, sâu), khiến thân phận bé nhỏ của con người như lọt vào cõi đời hun hút (sâu chót vót). Cảnh trong phần thơ 3 lại càng hoang vắng, thiếu bóng dáng con người nên bến sông “không một chuyến đò ngang” thân phận kiếp người trôi dạt không biết về đâu như những cánh bèo hàng nối hàng về nơi vô định.
Phần 4
Vẻ đẹp lớn lao của tự nhiên (vũ trụ) và tâm trạng của nhà thơ.
Nếu trong quá khứ, Thôi Hiệu nhớ về quê hương, trong một buổi chiều vì một duyên cớ: sóng nước trên sông gợi lên những cảm xúc:
Một hương quê thơm phức từ xứ sở xa xôi
Độc một mình, bồi hồi tận lòng những ân tình thấm đẫm nỗi buồn
(Hoàng Hạc lâu)
Quê hương che mờ dần dưới bóng hoàng hôn
Trên sông, khói sóng mang lại nỗi buồn cho ai!
(Tản Đà dịch)
Huy Cận cảm thấy buồn hơn Thôi Hiệu, và nỗi buồn của Huy Cận lại cụ thể hơn, triền miên, không cần lý do cụ thể: “Dù không có khói hoàng hôn, vẫn nhớ nhà”. Nhưng nhà của nhân vật trữ tình là ở đâu? Có phải nỗi nhớ nhà của Huy Cận là nỗi nhớ quê hương, đất nước, là nỗi đau của một thế hệ khi trưởng thành nhưng đất nước đã chìm trong bóng tối của nô lệ? (Tuy không so sánh ai buồn hơn ai, mỗi câu thơ mang một nỗi buồn riêng, một vẻ đẹp riêng và một tâm trạng riêng).
Hình ảnh cánh chim bay trong chiều tàn gợi lên lòng mong mỏi về một mái nhà, một quê hương, một cuộc sống an lành và hạnh phúc..
Hình ảnh cánh chim bé nhỏ là biểu tượng tương phản giữa bầu trời bao la và cánh chim nhỏ bé, nặng nề chở nặng một chiều tối trên miền xa xôi. Trong cánh chim bé nhỏ đó, có lẽ nỗi buồn của nhà thơ hiện lên, hoặc nói cách khác, có chút âm hưởng của chủ thơ trữ tình?
Tràng giang được xem là một trong những bài thơ nổi tiếng của Huy Cận và là biểu tượng của thơ lãng mạn thời kỳ 1932-1945.
Bức tranh chiều trong bài thơ có không gian rộng lớn, sông nước mênh mông, nhưng tất cả đều trở nên hoang vắng, tiêu sơ, thiếu đi sự sống.
Con người trong bài thơ đều mang nặng nỗi cô đơn, lạc lõng, buồn bã.
Bức tranh được vẽ ra bằng bút pháp tinh tế, với giọng thơ mang dấu ấn của thời kỳ Đường.
Tác giả đã thành công trong việc lựa chọn ngôn ngữ, để diễn đạt sự lảng vảng, không rõ ràng của cuộc đời con người. Cả bài thơ đều thiếu đi sự hiện diện của con người và âm thanh, làm cho nỗi buồn và cô đơn lan tỏa khắp bài thơ.
Mytour