Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà nho yêu nước, căm ghét giặc sâu sắc. Cuộc đời ông trải qua nhiều bi kịch và đau khổ. Chính vì vậy, ông càng cảm nhận rõ nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp xâm lược. Năm 1859, giặc Pháp vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải về quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh nạn. Sau khi chiếm được thành Gia Định, thực dân Pháp bắt đầu mở rộng cuộc tấn công các vùng lân cận. Cần Giuộc nhanh chóng bị giặc tràn vào. Những người nông dân đã đứng dậy đấu tranh, gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong trận chiến đêm ngày 16-12-1861, hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hy sinh anh dũng. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế cho buổi truy điệu. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện lòng cảm phục và tình thương vô hạn của tác giả với các nghĩa sĩ, đồng thời khắc họa vẻ đẹp chân thực, bi tráng của người nông dân yêu nước chống Pháp.
Than ôi!
Súng địch rền trời; lòng dân rõ ràng...
Khi đất nước gặp nguy, tiếng súng vang dội khắp nơi. Chính từ gian nan và đau thương ấy, tình yêu quê hương của những người nông dân chất phác đã được bộc lộ, vẻ đẹp tâm hồn họ thăng hoa trong cảnh ngộ khó khăn.
Tình yêu quê hương, đất nước của những người nông dân chất phác được thể hiện sâu sắc hơn qua những phép so sánh đối lập mà tác giả sử dụng trong các câu văn tiếp theo.
Nhớ những chiến sĩ ngày xưa:
Tất bật mưu sinh; lo toan cái nghèo,
Chỉ quen với ruộng đồng, quanh năm gắn bó làng quê.
Tay quen với cày bừa, cuốc cấy, làm việc đồng áng;
Không từng tập luyện khiên, súng, mác, cờ, chưa bao giờ nhìn thấy...
Trước đây, họ sống âm thầm với công việc đồng áng, chỉ mưu sinh với nỗi lo thường nhật. Họ chỉ quen làm việc nhà nông, làm bạn với trâu và ruộng. Chưa từng biết đến vũ khí hay tập luyện quân sự, họ chỉ đứng lên chiến đấu vì tình yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm.
Khi 'tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng', họ chờ đợi lệnh từ triều đình: 'trông tin quan như trời hạn trông mưa'.
Nỗi bi kịch đau lòng nằm ở việc triều đình yếu kém, không hiểu thấu lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của nông dân thì không thể kiềm chế:
Mùi tinh chiên ám ảnh ba năm, ghét giặc như nhà nông ghét cỏ.
... Bữa thấy bóng bong che trắng lốp, muốn đến xé nát; ngày thấy khói đen cuồn cuộn, muốn xông tới tiêu diệt.
Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ yêu nước hiện lên đầy quả cảm và hào hùng. Tình yêu quê hương nồng nàn từ trái tim họ khiến họ tỏa sáng. Lòng căm thù giặc mãnh liệt là nguồn cảm hứng cho những hành động dũng cảm, sục sôi đấu tranh.
Không chờ ai thúc giục, không cần ai kêu gọi, lần này xin toàn tâm đứng dậy phản kháng:
Không trốn tránh, lần này quyết tâm hành động mạnh mẽ.
Trong các tác phẩm phản đối chiến tranh phi nghĩa trước đây, người nông dân ra đi với tâm trạng buồn bã. Nhưng trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân tự nguyện đứng lên chiến đấu bảo vệ đất nước, thể hiện tinh thần và hành động anh hùng. Hình tượng người nông dân chiến sĩ yêu nước được khắc họa rõ nét qua tinh thần tự nguyện và sức mạnh phi thường của họ. Họ dám đối mặt với kẻ thù mạnh hơn bằng tinh thần quyết chiến, quyết thắng.
Từ bi kịch này, vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân yêu nước càng được làm sáng rõ. Với sự kiên cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ tạo nên những điều phi thường, viết nên bản anh hùng ca của dân tộc. Bất chấp khó khăn, họ quyết chiến, lấy tinh thần dũng cảm để bù đắp sự chênh lệch với kẻ thù.
Với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai làm từ rơm, đốt phá những nơi truyền đạo.
Lưỡi dao phay thay thế gươm đeo, chém rơi đầu quan binh.
Người chém ngược, kẻ đâm ngang, khiến mã tà khiếp sợ.
Dù chỉ có vũ khí thô sơ, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã tạo nên kỳ tích. Hình ảnh nghĩa sĩ nông dân với vẻ đẹp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước đã làm lu mờ thời kỳ đen tối của lịch sử mất nước cuối thế kỷ XIX.
Cảm xúc chủ đạo trong bài Văn tế là sự bi tráng, ngôn từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục và dồn dập. Nghệ thuật đối lập phát huy tối đa hiệu quả, tạo ra âm hưởng chiến trận hào hùng, thúc giục của một thiên anh hùng ca xuất sắc. Ngòi bút tác giả xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân và những tư tưởng lớn lao được tác giả phát hiện trong hành động của họ.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc nên hình tượng những nghĩa sĩ nông dân kiên cường và bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm. Tượng đài ấy là dấu mốc của bi kịch dân tộc - bi kịch mất nước, mở ra một giai đoạn lịch sử đen tối - thời kỳ 100 năm Pháp thuộc. Nhưng giữa bi kịch lớn đó, tinh thần bất khuất của người Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn rực rỡ bởi lý tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn và vì dân tộc.