“Thơ là tiếng của tâm hồn” - những dòng thơ này phản ánh tâm trạng và quan điểm của tác giả. Vì vậy, giá trị của loại thơ này phụ thuộc vào giá trị của tâm hồn. Tâm hồn không nên được hình thành từ những ý định thoái lạc tạm thời, cũng không nên dựa vào những ý định nhỏ nhặt. Tâm hồn cần phải được kiên định thông qua hành động. Có thể có những kế hoạch không thành công, nhưng việc cố gắng đó cũng chứng tỏ một tâm hồn lớn đã cống hiến, không phải là ý chí yếu đuối. Điều này là đảm bảo cho giá trị của thơ. Vì vậy, thơ chỉ có ý nghĩa khi được thể hiện qua sự tư duy sâu sắc, không phải là những từ ngữ rỗng tuếch, hoặc những lời nói lớn lao không đáng kể, nếu không có một tâm hồn lớn, và càng tốt nếu tâm hồn lớn đó không chỉ kết hợp với một tư tưởng lớn, một cuộc sống lớn.
Tiếng thơ thường kết nối trực tiếp với những tâm hồn lớn của quá khứ thông qua những nhân vật lịch sử, những nhà lãnh đạo. Thơ của họ là tiếng nói của cuộc đời họ. Trước khi họ viết về con người trong thơ, họ đã viết về con người trong cuộc sống. Mọi người thường ví họ như những con chim đại bàng, tách biệt với những con chim sẻ, chim én. Và trong thơ của họ, họ hiện diện như những cánh đại bàng mạnh mẽ vươn cao giữa bầu trời bao la. Tư thế của họ là tư thế uy nghi, tư thế vũ trụ, không phải là “Ngang bằng với sông núi, bảo vệ quê hương mấy thời kỳ thu” (Cầm quyền trước con mồi làm vệ sĩ cho đất nước mấy thời kỳ thu - Phạm Ngũ Lão), không phải là “Mỗi lần gươm vụt sáng dưới ánh trăng” (Mỗi lần gươm nhấp nháy dưới ánh trăng - Đặng Dung), không phải là “Khi kêu to một tiếng làm lạnh không gian” (Khi một tiếng reo vang lạnh lẽo vang trên không trung - Không Lộ thiền sư) nhưng thay vào đó là “Bay thẳng về phía trời xanh, phá vòng vây kẻ thù” (Làm bay thẳng về phía trời xanh, phá vòng vây kẻ thù - Nguyễn Hữu Cầu)... những ý nghĩa này ghi nhận tinh thần cao quý của một dòng dõi.
Trong dòng thơ chứa đựng trực tiếp tinh thần cao quý đó, Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là biểu hiện hùng mạnh và quyết liệt của một trong những con người xuất sắc nhất của dòng dõi Việt Nam.
Trong thực tế, quan điểm về việc trở thành một người đàn ông trong bài thơ này không chỉ riêng của Phan Bội Châu. Đó là quan điểm phổ biến về lòng dũng cảm của những người theo trường phái Nho từ xa xưa. Và chúng ta cũng thấy điều này được thể hiện mạnh mẽ trong văn thơ của Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở đây không phải là Phan Bội Châu đưa ra một quan điểm lý thuyết như một nhà triết học, mà ông là người đã sống theo quan điểm đó từ trước khi viết thơ. Có lẽ vì vậy, trong bài Xuất dương lưu biệt không chỉ chứa đựng một triết lý sống mà còn là bức tranh về một con người - một con người đầy đủ, xuất sắc:
Đối với hai câu đề:
Làm người đàn ông phải có sự kì lạ trên thế gian,
Liệu có thể thách thức được vận mệnh?
Tôi cho rằng từ 'kì lạ' trong bản dịch này chưa thể hiện đầy đủ tinh thần của từ 'kì'. Bởi từ 'kì' muốn nói đến việc: làm người đàn ông phải thực hiện những điều kỳ diệu, xuất sắc, và đặc biệt. Chỉ từ một từ 'lạ' không thể truyền đạt hết ý của Phan Bội Châu. Tôi cũng không nghĩ rằng người dịch sử dụng ba từ 'trên thế gian' đã diễn đạt đúng ý nghĩa của nguyên tác. 'Thế gian' là một không gian tưởng chừng rộng lớn nhưng lại hẹp hòi, vì nó có xu hướng thu hẹp vào phạm vi của thế giới con người. Trong bản gốc, Phan Bội Châu không sử dụng những từ đó. Chỉ đến câu thứ hai chúng ta mới thấy yếu tố không gian xuất hiện. Và ngay lập tức, bức tranh về một nhân vật kiệt xuất theo quan điểm của Phan Bội Châu đã hiện ra rõ nét: Đó không phải là người sống passively, đầu hàng vận mệnh của mình cho thế giới, và cũng không từ bỏ cuộc sống này cho vận mệnh của thế giới. Người đàn ông phải là người chủ động thay đổi cả thế giới. Sự kiên định vượt lên trên thế gian, thách thức trời đất, cải tạo thế giới mới là điều xứng đáng với một cuộc sống đích thực. Quan điểm về con người của Phan Bội Châu ở đây chính là quan điểm về con người vũ trụ, một quan điểm rất quen thuộc trong văn học Nho giáo thời trung cổ.
Nếu hai câu đề tạo ra hình ảnh nam tử trong một không gian kỳ vĩ, thì hai câu thực đã phát triển ý tưởng đó trong một chiều sâu khác: thời gian. Thời gian ở đây cũng là thời gian thuộc về quy mô to lớn:
Trong vòng một thế kỷ, ai sẽ thay tớ?
Sau này hàng ngàn năm, liệu có ai đứng lên?
Trong câu đề, mặc dù cái hơi thở cá nhân đã rõ ràng, nhưng quan điểm vẫn là quan điểm chung. Tại đây, con người cá nhân của Phan Bội Châu đã lộ diện ngay trên bề mặt câu chữ. Ông nhận thức về tầm quan trọng lịch sử của mình với sự kiêu hãnh và tự tin. Ông định trở thành một nhân vật không thể thiếu trong suốt một thế kỷ qua. Nói cách khác, ông tự nhận lấy sứ mạng của mình: một con người quan trọng của thế kỷ. Đối mặt với thách thức của thời gian, đối mặt với thế kỷ, tầm vóc của bậc nam tử này thực sự là tầm vóc của vũ trụ. Ông không muốn chỉ chiếm đóng một vị trí trong lịch sử như một kẻ vĩ cuồng tham vọng. Thực tế là, ông muốn thực hiện một công việc lớn lao, xuất sắc để thay đổi cả thế giới. Từ “tớ” là biểu hiện của từ “ta” (tôi). Dù là tôi, chúng ta, hay “tớ”, thì ý thức về bản thân vẫn được nhấn mạnh trong mọi tình huống. Hình ảnh của tác giả hiện lên trong không gian và thời gian rộng lớn như thế là một vẻ đẹp cá nhân tuyệt vời. Phải nhìn nhận rằng, ít ai có thể tưởng tượng được mình trong một không gian và thời gian hùng vĩ như vậy!
Mặc dù bốn câu đầu tiên chỉ nói về việc phải làm điều gì “lạ”, nhưng chưa nói rõ “điều lạ” đó là gì! Bốn câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng tỏ điều này. Hai câu luận là một cái nhìn đầy phi thường:
Non sông đã tàn phá, nhục nhã thêm nỗi đau,
Hiền thánh vẫn còn đâu, học vẫn dạy mãi?
Câu trên khẳng định: Non sông đã bị tàn phá! Khi quyền lực đã rơi vào tay kẻ ngoại bang, thì non sông đã tan rã. Sống mà không có quyền tự quyết định là sống nhục nhã. Bốn chữ “Giang sơn tử hĩ” chứa đựng nỗi đau và sự phẫn uất. Câu dưới tiếp tục cho rằng Hiền thánh đã mất hút, đọc sách cũng vô ích! Tất cả đều là những phủ nhận mạnh mẽ rằng: Sống dựa vào sách vở, sống dưới mái nhà trong thời đại này là điều đáng xấu hổ đối với một người đàn ông. Bởi đó là việc từ bỏ quyền lực kiểm soát cuộc sống của mình, là phó mặc bản thân cho dòng chảy của cuộc sống. Tất cả những gì đáng trọng với một người đàn ông coi như đã mất đi. Vì thế, cần có hành động xứng đáng. Hành động xứng đáng, hành động đặc biệt xuất sắc đó bây giờ là: Xuất dương.
Những câu trên cho thấy cái tôi hiện ra trước “quyền lực”, trước “địa vị cao quý”, “tri thức và đạo đức” những khía cạnh to lớn của không gian và thời gian, ở đây, nó tiếp tục được đề cập thông qua: “Giang sơn” và “Thánh hiền'. Con người đó đối mặt với sức mạnh của đất nước, đối mặt với toàn bộ kiến thức văn hóa. Cho nên, càng về sau chân dung của con người đó, cái tôi đó càng rõ nét với tất cả những điều to lớn nhất. Cái không gian duy nhất có thể chứa đựng con người đó là vũ trụ.
Đến hai câu kết thì những nét bút cuối cùng đã hoàn thiện hành động xuất sắc của một cuộc đời kiệt xuất:
Muốn vượt biển Đông theo dòng gió,
Cả ngàn sóng bạc chào đón ra khơi.
Sáu câu trên khơi gợi lên những suy tư, những quyết định, những chuẩn bị trong tâm trí, trong tư duy của một con đại bàng. Ở hai câu này, chúng ta thấy con đại bàng đang mở đôi cánh rộng lớn của mình bay thẳng ra biển Đông, đối mặt với tất cả những cơn gió lớn. Câu thơ gợi nhớ đến tư thế của con chim lớn trong thư Quận Hán: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô”. Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu không chỉ là một hình ảnh ước lệ nữa. Với phong trào Đông du mà ông đề xuất, với hành động xuất dương mà ông khởi xướng, đó là những bước đi phi thường của những người trí thức sẵn sàng đối mặt với sóng biển lớn để tìm lại “giang sơn đã mất”, để cố gắng thay đổi số phận.
Bài thơ kết thúc bằng một câu thơ đầy hùng tâm và tráng chí mà câu thơ dịch không thể truyền đạt hết:
Thiên trùng bạch lãng vẫn bay rộng lớn.
Làm người đàn ông không chỉ là để ghi danh trong lịch sử, khẳng định bản thân. Mà người đó cần thực hiện những việc phi thường, như kinh doanh, đạo đức, và giúp đỡ dân chúng, cứu nước. Khao khát sống cao quý của Phan Bội Châu ở đây, một lần nữa, cho ta thấy được tính cách vĩ đại của người đàn ông xuất chúng này.