Phân tích Bản Tuyên ngôn Độc lập (20 mẫu)
1. Giới thiệu
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về bối cảnh lịch sử và ý nghĩa văn học của Tuyên ngôn độc lập,
2. Nội dung chính
- Trình bày tóm tắt về cấu trúc của Tuyên ngôn độc lập: bao gồm 3 phần được sắp xếp một cách chặt chẽ và hợp lý.
* Cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn độc lập
- Trích dẫn hai văn kiện tuyên ngôn từ Mỹ và Pháp để làm cơ sở pháp lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
+ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người ... quyền mưu cầu hạnh phúc”
+ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do ... bình đẳng về quyền lợi.”
- Ý nghĩa:
+ Sử dụng phương pháp “gậy ông đập lưng ông”: sử dụng tuyên ngôn của Pháp để đối đáp lại chúng, ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của họ.
+ Đặt bình đẳng cách mạng, giá trị của tuyên ngôn của quốc gia ta cùng với hai cường quốc Mỹ và Pháp, thể hiện lòng tự hào dân tộc.
+ Lập luận chặt chẽ, sáng tạo: từ quyền con người (tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc), “mở rộng ra” là quyền tự do bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới.
* Thực tế làm nền tảng cho Tuyên ngôn độc lập
- Tội ác của thực dân Pháp
+ Phơi bày bản chất tàn bạo của cuộc “khai phá” của thực dân Pháp: thật ra, họ thực hiện nhiều chính sách tàn ác về chính trị, văn hóa – xã hội – giáo dục và kinh tế.
+ Tiết lộ bản chất của cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp: hai lần bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945), khiến “hơn hai triệu người dân của chúng ta chết đói”, ...
+ Phân tích rõ ràng các chiêu trò tinh vi, lên án tội ác của chúng: họ phản bội Đồng minh, không chỉ không hợp tác với Việt Minh mà còn tấn công mạnh mẽ Việt Minh, ...
+ Nghệ thuật: Sử dụng cấu trúc “chúng + hành động” để tập trung vào tội ác của Pháp.
- Cuộc đấu tranh công bằng của nhân dân ta
+ Dân tộc ta đã chiến đấu chống lại sự chi phối của thực dân hơn 80 năm, đứng về phía Đồng minh chống phát xít, kêu gọi Pháp đối mặt với Nhật, giành lại đất nước từ tay Nhật
+ Kết quả: Đồng thời phá hủy 3 sự kiện gắn kết dân tộc ta (Pháp chạy trốn, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị), thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Tuyên ngôn độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc
+ Sử dụng từ ngữ phủ định để tuyên bố sự thoát ly hoàn toàn khỏi thực dân Pháp, hủy bỏ tất cả các thỏa thuận đã ký kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.
+ Dựa trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền tự do của dân tộc Việt Nam.
+ Tuyên bố với thế giới về sự độc lập của dân tộc Việt Nam: “Việt Nam có quyền tự do ... ”. Thể hiện quyết tâm giữ vững chủ quyền, sự độc lập và tự do của dân tộc.
+ Lời văn sắt đá, rõ ràng như một lời thề cũng như một lời kêu gọi tinh thần yêu nước của nhân dân toàn quốc.
3. Kết luận
- Tổng quan về giá trị nghệ thuật: là một bài văn chính luận mẫu mực, với lập luận chặt chẽ, logic thuyết phục, dẫn chứng chân thực, sử dụng ngôn từ hùng hồn, gần gũi và giàu tính biểu cảm.
- Đánh giá tổng quan về giá trị nội dung (giá trị văn học, giá trị lịch sử) của bản tuyên ngôn độc lập: cao quý truyền thống yêu nước, ý chí chống lại sự xâm lược quân sự, lòng tự hào dân tộc; là một biểu tượng quan trọng trong lịch sử dân tộc.
1. Tổng quan

2. Cơ sở pháp lý

3. Thực tế

4. Lời tuyên bố

“Hỡi đồng bào của cả nước, Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể vi phạm được; trong những quyền đó, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
“... Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn bình đẳng về quyền lợi”.
Hai bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1976 và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1971 đã được Bác trích dẫn một cách hợp lý. Đó là hai tài liệu quan trọng của thế giới, trong bối cảnh lịch sử đã chứng minh sự quan trọng của quyền con người. Đây là những sự thật có giá trị vô cùng lớn. Bác đã sử dụng nghệ thuật tâm lý 'gậy ông đập lưng ông'. Âm mưu của Mỹ và Pháp đã bị ngăn chặn bởi những tuyên ngôn, lời răn dạy của tổ tiên. Nếu họ xâm phạm quyền tự do của dân tộc ta, thì chính là đi ngược lại với đạo lý của họ. “Đó là một sự thật không thể phủ nhận”, Bác đã mạnh mẽ khẳng định và quyết tâm, kiên định về lập trường chính nghĩa của dân tộc ta. Đồng thời, khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn này, tác giả đã thể hiện sự khéo léo khi rất trân trọng những tuyên ngôn bất hủ và sử dụng lý lẽ của chúng để ngăn chặn âm mưu xâm lược của Đế quốc. Đặt ba bản tuyên ngôn cũng như ba cuộc cách mạng vào cùng một tầm vóc, mang đầy tính to lớn của thế giới. Như một sức mạnh cổ vũ cho cuộc chiến của các nước thuộc địa chống lại thực dân trên thế giới bằng sự nhận thức sâu sắc và sáng suốt, tác giả đã đưa ra những lý lẽ sắc bén, nhạy bén và chứa đựng tình cảm lớn lao đối với nhân dân.
Sau cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn, Bác đã đưa ra cơ sở thực tế, những sự thật lịch sử, những bằng chứng sống qua hàng chục năm đấu tranh của nhân dân cả nước. Đó là những lý lẽ thuyết phục nhất vì nó được chứng minh bởi thực tế, được nhân dân chứng kiến và tham gia, và vì vậy đã khuấy động hàng triệu trái tim con người trên toàn thế giới. Lời lẽ tố cáo đầy sự phẫn nộ và đau lòng:
“Thế mà hơn 80 năm nay, thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, nhân ái, để chiếm đất nước chúng ta, áp bức nhân dân ta. Hành động của họ là hoàn toàn trái với nhân đạo và chính nghĩa”.
Cuộc sống của nhân dân gian khổ, đất nước gánh chịu nhiều đau thương, bao nhiêu gia đình mất mát, cha mất con, mẹ mất con... đều mang dấu vết của thực dân đế quốc
“Về chính trị, họ tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.”
Chúng áp đặt các luật pháp tàn bạo. Chúng thiết lập ba chế độ khác nhau ở Miền Trung, Nam, Bắc để ngăn cản sự thống nhất của dân tộc, để chia rẽ dân tộc ta.
Chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn cả trường học. Chúng không ngần ngại giết những người yêu nước của chúng ta. Chúng đổ máu dân ta trong những cuộc khởi nghĩa.
Chúng hạn chế tự do ngôn luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng sử dụng ma túy, rượu để làm suy nhược tinh thần của dân tộc ta.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến cốt cách, làm cho dân ta nghèo khó, bất lực, đất nước ta suy thoái. Chúng chiếm đoạt ruộng đất, mỏ, tài nguyên.
Chúng kiểm soát độc quyền việc in tiền, xuất nhập khẩu.
Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế phi lý, làm cho dân ta, đặc biệt là dân nông dân và dân buôn trở nên nghèo đói.
Chúng không cho các nhà sản xuất của chúng ta tự do. Chúng bóc lột công nhân của chúng ta một cách tàn nhẫn”.
Bác đã vạch trần bản chất thực sự của sự nịnh bợ, tỏ ra nhân từ, nhưng thực chất là sự đô hộ của Pháp đối với nước ta, làm cho dân tộc ta mất đi bản sắc. Mỗi từ, mỗi câu chữ như đâm vào lòng người đọc, mỗi từ mang trong mình máu và nước mắt của dân tộc. Bao nhiêu sự căm phẫn, bao nhiêu nỗi đau, bao nhiêu sự thương tiếc được thể hiện trong những luận điệu, những tuyên bố này.
Bằng những từ ngắn gọn, những dòng văn đầy cảm xúc, chứa đựng những căm thù vô số lần đau đớn và những hình ảnh sâu sắc, Bác đã mô tả trước mắt thế giới một giai đoạn lịch sử đầy đau thương của dân tộc Việt Nam. Bác lên án tội ác “không tha thứ của Pháp, những hành động của họ là mưu mẹo, là tàn nhẫn”. Dân ta đã tự nhiên đứng lên đấu tranh quyết liệt và kiên quyết đối đầu với một Pháp yếu đuối, hèn nhát.
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, không phải của Pháp nữa. Khi Nhật thất bại, dân ta đã nổi dậy, giành lấy quyền lãnh đạo, thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp”.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đồng thời thực hiện hai mục tiêu lớn là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Từ sự nổi lên của dân chúng, Bác tuyên bố sự giải phóng, không còn liên quan đến Pháp, loại bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp. Đồng thời, Bác cũng rõ ràng khẳng định quyền tự do và dân tộc của Việt Nam.
“Một dân tộc đã dũng cảm chống lại ách nô lệ của Pháp suốt hơn 80 năm, một dân tộc đã đứng về phía Đồng minh chống phát xít trong nhiều năm qua, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Việt Nam có quyền tự do và độc lập, thật sự đã trở thành một quốc gia tự do và độc lập”.
Với tư duy sắc bén và tinh thần cách mạng sâu sắc, Bác đã phơi bày bản chất giả dối của kẻ thù. Bằng lập luận chặt chẽ, Bác đã cung cấp cơ sở pháp lý thuyết phục. Bằng tình yêu dành cho nhân dân và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã khơi dậy lòng tự hào và quyết tâm chiến đấu của con người trên toàn thế giới. Tuyên ngôn độc lập là một kiệt tác vĩ đại của một tâm hồn lớn, một con người lớn. Như đã được Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét:
“Tài năng của Bác là dựng nên một lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận điểm không thể bác bỏ và sau những lí lẽ ấy là tư duy sâu xa, văn hóa to lớn, được tổng hợp trong một tác phẩm ngắn gọn, sáng sủa, kết hợp kinh nghiệm của nhiều thế kỷ chiến đấu vì tự do, độc lập và nhân quyền của nhân loại”.
Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, mà còn là một tác phẩm văn chính luận xuất sắc với lập luận chặt chẽ, ngắn gọn và thuyết phục. Bác đã thể hiện tài năng xuất sắc trong văn chính luận với ngòi bút sắc bén, uyên bác, bên cạnh tài thơ ca trữ tình chính trị.
Bác đã đưa ra cơ sở pháp lý dựa trên văn kiện lịch sử của các nước lớn, để làm tiền đề cho tuyên ngôn của mình. Bằng sự sáng tạo của mình, Bác đã chú giải ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và nhấn mạnh rằng mọi dân tộc trên thế giới đều xứng đáng được đối xử công bằng. Đồng thời, Bác đã mượn đoạn trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp để khẳng định ý kiến của mình. Cuối cùng, Bác kết luận rằng: “Đó là những lẽ phải không ai có thể bác bỏ được”.
Sau khi khẳng định tính chân lý của cơ sở pháp lý, Bác tiếp tục làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn để đánh bại âm mưu của thực dân Pháp trong việc biến nước ta thành thuộc địa bằng cách 'khai hóa' hay 'bảo hộ'... Hồ Chủ tịch đưa ra các luận điểm mạnh mẽ để phủ nhận những lập luận xảo trá được thực dân Pháp áp dụng để làm cho dân tộc ta chấp nhận sự thống trị của họ. Bằng những chứng cứ rõ ràng và sắc bén, Người đã tố cáo thực dân Pháp và những kẻ giữ quyền lợi, những người luôn ấp ủ kế hoạch 'khai hóa' để lừa bịp dân ta và thế giới, nhằm thuận lợi trong việc xâm lược và vô hiệu hóa dân tộc ta.
Bên cạnh chiến lược 'khai hóa' lố bịch, thực dân Pháp còn không ngừng tuyên bố về chiến lược 'bảo hộ' một cách trang trọng, tuy nhiên, những kế hoạch gian lận đó không thể che giấu được ý đồ bẩn thỉu của chúng. Hồ Chủ tịch nhanh chóng phủ nhận chúng bằng cách trình bày những bằng chứng cực kỳ thuyết phục và rõ ràng rằng, mặc dù tự nhận là bảo hộ, nhưng thực tế Pháp đã hai lần bán nước ta cho phát xít Nhật trong vòng 5 năm. Kết quả là hơn 2 triệu người dân ta phải chịu đói, ngoài ra còn thất thảy trong cuộc chiến chống Nhật, thậm chí bị khủng bố và giết hại, kể cả những người bị giam cầm vì lý do chính trị. Bằng những lý do rõ ràng về hành vi không minh bạch của thực dân Pháp, việc đề cập đến chiến lược 'bảo hộ' chỉ khiến cho mọi người cảm thấy buồn cười, liệu chúng có thể không cảm thấy xấu hổ và nhục nhã chăng?
Sau khi đã làm rõ cơ sở pháp lý và chứng minh được cơ sở thực tiễn bằng những lý lẽ và luận điểm cặn kẽ, ngắn gọn và thuyết phục, Hồ Chủ tịch sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ và quyết liệt, nhấn mạnh liên tục vào hai vấn đề chính là 'độc lập' và 'tự do' để khẳng định quyền tự do của dân tộc: 'Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ quyền tự do và độc lập đó!'. Đó là những lời nói đầy lòng yêu nước, yêu dân, yêu chuộng hòa bình từ con tim của một người có trái tim yêu nước, là mong muốn không chỉ của riêng Bác mà còn của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Muốn tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và lãnh thổ của mình, nhân dân Việt Nam quyết tâm hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập quý báu đó.
Tác phẩm này được soạn thảo vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Bác đọc tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn được cấu trúc thành ba phần: cơ sở pháp lý - cơ sở thực tiễn - khẳng định.
Bản Tuyên bố Quyền con người và Dân quyền được tạo ra trong thời kỳ chiến thắng của cách mạng Pháp, biểu tượng cho sự chống lại sự bạo hành và bất công của thị dân và nông dân. Hai tuyên bố này thể hiện sự tiên phong của các quốc gia ảnh hưởng, mang tính quốc tế và không thể phủ nhận tính chính xác của chúng.
Trong phần hai, tóm tắt một cách đầy đủ các tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trong gần một thế kỷ qua. Bằng cách mô tả các hành động tàn ác của thực dân Pháp, tác giả đã thúc đẩy tinh thần nhân đạo và khuyến khích hành động chống lại áp bức.
Bản Tuyên bố Độc lập là biểu tượng của sự ra đời của một quốc gia mới, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập và tự do cho một dân tộc kiên cường. Nó là một ví dụ về văn nghệ chính trị mạnh mẽ, lôi cuốn và thuyết phục, cung cấp cơ sở pháp lý cho việc kết án thực dân Pháp.
Trong phần hai của Tuyên bố Độc lập, tác giả chỉ trích thực dân Pháp là nguyên nhân gây ra đói nghèo và sự lạc hậu ở Việt Nam. Bằng cách phê phán các hành động của thực dân Pháp, tác giả kêu gọi sự đoàn kết và hành động chống lại áp bức.
Bằng cách trích dẫn các tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, tác giả tạo ra cơ sở pháp lý để kết án thực dân Pháp. Bằng cách mô tả các tội ác của thực dân Pháp, tác giả kêu gọi sự đoàn kết và hành động chống lại áp bức.
Tuyên bố Độc lập thể hiện ước mơ và khát vọng của hàng thế hệ và hàng dân tộc. Nó là biểu tượng của sự độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam.
Phần thứ hai tóm tắt đầy đủ tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trong suốt hơn một thế kỷ đô hộ. Chúng tước đoạt tự do chính trị và thi hành luật pháp dã man, ngăn cản sự thống nhất của đất nước và đoàn kết dân tộc.
Bản Tuyên ngôn độc lập đánh dấu sự ra đời của một quốc gia mới, một kỷ nguyên mới của độc lập và tự do cho một dân tộc bất khuất. Nó là một bản văn chính luận lôi cuốn và thuyết phục, vạch mặt kẻ thù và khích lệ tinh thần nhân dân.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử đặc biệt, kích thích tinh thần nhân dân và thu hút sự đồng tình quốc tế.
Toàn bộ văn bản tuyên ngôn độc lập gói gọn trong một số chữ ít ỏi nhưng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ ràng và liền mạch, mỗi phần tập trung vào một ý chính.
Phần đầu của bản Tuyên ngôn nêu bật chân lý về nhân quyền và dân quyền, vạch mặt thực dân Pháp và khích lệ tinh thần đoàn kết và chống lại áp bức.
Tuyên ngôn độc lập là biểu tượng của sự khởi đầu mới, của sự tự do và độc lập cho dân tộc mạnh mẽ. Nó không chỉ là chiến thắng của một quốc gia ở châu Á mà còn là một tác phẩm văn chính luận đầy ấn tượng và thuyết phục.
Tuyên ngôn độc lập ra đời trong bối cảnh đặc biệt, khi chính quyền mới lập phải đối mặt với nhiều thách thức từ thế lực phản động. Mặc dù gặp khó khăn nhưng tuyên ngôn vẫn có ý nghĩa lịch sử quan trọng với dân tộc.
Bản tuyên ngôn sử dụng hai tác phẩm nổi tiếng của thế giới để tăng sức thuyết phục và ngăn chặn âm mưu xâm lược. Đồng thời, nó cũng là sự phản ánh của trí tuệ và khéo léo của người viết.
Phần cáo trạng đưa ra những bằng chứng cụ thể về sự áp bức và bóc lột của thực dân Pháp đối với dân tộc. Bác khẳng định quyết tâm đánh bại âm mưu xâm lược bằng cuộc chiến tranh chính nghĩa và lòng kiên trì của nhân dân.
Tuyên ngôn Độc lập là một kiệt tác văn học với giọng văn hùng hồn và thuyết phục cao. Nó là kết quả của sự hy sinh và nỗ lực của hàng triệu người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho độc lập.
Bản tuyên ngôn mở đầu bằng việc nêu rõ những nguyên tắc không thể chối cãi, kết hợp hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ để thể hiện quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho tự do và độc lập.
Dựa trên cơ sở đó, Người công bố việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố hoàn toàn ly khỏi quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên lãnh thổ Việt Nam...
Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên là một tài liệu lịch sử quan trọng nhất. Nó là văn kiện hàng đầu của dân tộc chúng ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, có bao nhiêu người đã hy sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một biểu tượng lịch sử, nó kết thúc giai đoạn mất nước, giai đoạn dân tộc sống trong nghèo khổ, nô lệ, và mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ tự do Độc lập.
Với hệ thống lập luận logic, logic sắc bén, lời văn hùng hồn, kiên quyết, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng được so sánh với các tuyên bố độc lập trên thế giới và các tác phẩm văn học cổ xưa của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.