Mẫu số 1
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi (1380- 1442) là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, là anh hùng cứu nước trong thời kỳ “bình Ngô', là một danh nhân văn hóa của Đại Việt. Thơ của Nguyễn Trãi bằng chữ Hán và chữ Nôm rất đẹp, sâu sắc, và cao quý, là biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam.
Tập thơ “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện nay vẫn còn tồn tại 254 bài thơ, được phân loại thành nhiều loại và thể loại khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong 'Quốc âm thi tập” không có tiêu đề. Bài thơ này là bài thơ số 43 trong phần “Bảo kính cảnh giới”. Những bài thơ trong 'Bảo kính cảnh giới” thường chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất sâu sắc và trữ tình, mang lại cho chúng ta nhiều niềm thú vị.
Đề tài về mùa hè, cảnh hè được nhắc đến nhiều trong văn thơ cổ truyền của dân tộc. 'Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một ví dụ điển hình cho ngôn ngữ thi ca của Ức Trai, là biểu tượng của thời đại, thời kỳ Lê, thế kỷ XV, mô tả cảnh sắc mùa hè của làng quê và những ước mong của nhà thơ.
Câu thơ đầu tiên (lục ngôn) miêu tả một cách sống của thi nhân. Câu thơ đó nhẹ nhàng, vui vẻ, và tự do:
'Rồi bóng mát thuở ngày trường”
Ẩn sau câu thơ đó là hình ảnh của một cụ già, cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng' đang đi dạo mát. Khi đó, Ức Trai không còn bị buộc bởi “áng mận đào ”, hay vòng 'danh lợi ” nữa, mà được vui chơi trong vườn ruộng, kết bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. 'Ngày trường' là những ngày dài. 'Rồi' là từ cổ, ý chỉ nhàn nhã, thảnh thơi, cả trong công việc và tinh thần. Câu thơ phản ánh một cách sống nhẹ nhàng: trong những buổi chiều nhàn rỗi, việc tận hưởng cái mát làm niềm vui tinh thần. Có thể suy luận rằng Ức Trai đã viết bài thơ này khi ông đã rút về Côn Sơn ẩn dật.
Năm câu thơ tiếp theo mô tả cảnh quan của làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, và hai câu 5, 6 miêu tả âm thanh của chiều hè.
Cảnh sắc của mùa hè đầu tiên là bóng mát, màu mát. Lá mát xanh thẫm, xanh lục. Cành mát sum sê, um tùm, lá 'đùn đùn ' lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
“Mát lục đùn đùn rợp trương”
Tán mát tạo ra bóng mát, che phủ sân, lối đi, vườn nhà, “trương” lên như một cái dù, cái lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi lên sức sống của cảnh vật nông thôn trong những ngày hè: lục, đùn đùn, rợp, trương. Ngôn ngữ thơ giản dị, giàu hình tượng và ấn tượng.
Cây mát thường được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa tạo ra bóng mát. Mát nở hoa vào mùa hè, màu vàng, được sử dụng làm dược liệu, và làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây mát thường được liên kết với điển tích “giấc mộng đẹp”, “sân mát” (chỉ nơi ở của cha mẹ). Trong 'Truyện Kiều” có câu: “Sân mát chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ của Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh của cây mát xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc:
“Lại có hoa mát chen bóng lục”
('Cảnh hè' – Ức Trai)
“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”
('Mát' – Ức Trai)
“Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,
Đùn đùn bóng rợp phủ màn mát ”
('Vịnh cảnh mùa hè' – 'Hồng Đức quốc âm thi tập').
“Rợp rợp màn mát bóng mới xây,
Choi chói hoa vàng đưa gió
Đùn đùn tán lục gương mây”.
('Màn mát' – Lê Thánh Tông)
Câu thơ thứ 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” có nghĩa là hết (từ cổ). Cây thạch lựu vẫn nở hoa thơm bên ao làng, nhưng hương thơm đã mờ, đã dần phai. Thạch lựu là biểu tượng của cảnh sắc mùa hè của làng quê chúng ta. Khi cây thạch lựu bên ao làng đã “tịch mùi hương” nghĩa là đã cuối hè.
Nguyễn Trãi đã lựa chọn mát, thạch lựu, sen hồng để mô tả và đưa vào thơ của mình. Cảnh sắc đó vô cùng xinh đẹp và giản dị. Nhà thơ đã liên kết tâm hồn của mình với cảnh vật mùa hè bằng tình yêu đối với quê hương. Thiên nhiên trong thơ của Ức Trai rất gần gũi và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:
“Tá lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải lãnh mồng tơi”
(Ngôn chí – số 9)
“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương mát”
('Thuật hứng' – số 24)
Hè rất đẹp, rộn ràng trong bản nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim râm, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói 'lao xao ' của đời thường:
“Lao xao chợ cá làng ngư phù,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương'.
Sau khi mô tả mát màu 'lục”, thạch lựu 'phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nhắc đến âm thanh của mùa hè, khúc nhạc của làng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá của làng chài xa vọng đi, đó là dấu hiệu của cuộc sống dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống của cuộc sống dân dã đó với nhiều niềm vui. “Lao xao” là từ tiếng lấy tượng trưng cho sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa nhịp với tiếng lao xao của chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. 'Cầm ve”, hình ảnh tượng trưng, miêu tả âm thanh của tiếng ve như tiếng đàn cầm. 'Dắng Dỏi ” nghĩa là sâu lắng, âm sắc của tiếng ve trầm bổng, vang xa. Ngôi lầu vào buổi chiều trở nên náo động, huyên náo. Nhà thơ dùng tiếng ve để mô tả khung cảnh của một chiều hè trong làng quê lúc hoàng hôn dần buông xuống trên mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ, làm nổi bật không khí êm đềm của một chiều hè trong làng quê:
“Dắng dỏi cầm ve /lầu tịch dương”
Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve trong buổi họa nhạc 'Hội Đàn Tao” dưới thời vua Lê Thánh Tông:
“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve
Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng 'trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại dành tâm hồn mình cho khúc nhạc dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve trong hoàng hôn thường gợi nhiều nỗi buồn, bởi vì ngày tàn, màn đêm đang dần buông. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành 'cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh của làng quê trong một chiều hè bỗng rộn lên với nhiều niềm vui cuộc sống.
Hai câu cuối cùng diễn tả ước mong của nhà thơ:
“Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
'Dễ có ” có nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.
Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.
Trong thơ của Ức Trai, hai câu kết luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:
'Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào '
(Mạn thuật – số 13)
'Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
('Thuật hứng' – số 5)
Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước mô tả cảnh tình mùa hè của làng quê, đã mang lại cho chúng ta nhiều trải nghiệm văn chương thú vị. Một giọng thơ sâu lắng, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè của quê hương xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã truyền tải một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng chân thành với cuộc sống, một khát vọng cho hạnh phúc của dân tộc. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học về tình yêu nhân dân mà ông đã nhắc đến luôn luôn mới mẻ và sâu sắc.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi không chỉ nổi tiếng với tác phẩm nổi tiếng, một bài thơ kinh điển tinh túy về đại cáo bình ngô mà còn được biết đến với những bài thơ tinh thần về thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… Trong số những tác phẩm đó, không thể không kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ tương tác với cảnh ngày hè, tôn vinh sự hòa quyện giữa thiên nhiên, con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.
Trong dòng thơ về tình yêu thiên nhiên, Côn Sơn là điểm dừng chân yên bình của Nguyễn Trãi giữa những ngày tháng uất ức trên chiến trường.
Sự thoải mái nhàn nhã ấy được thể hiện trong câu đầu tiên:
Rồi thấy mát mẻ những ngày học trường
Câu thơ này mở ra không gian thư thả, tận hưởng mát mẻ của những ngày dài, và những hình ảnh dần lộ diện trong những câu sau. Những khoảnh khắc ấy là những khoảnh khắc thư thái, khi lãng quên muộn phiền, khiến tâm hồn và cơ thể đều thư thả. Với ông, cuộc sống chỉ cần như thế, mùa hè đến mà ông không cảm nhận nổi cái nóng oi bức của trời đất, chỉ cảm nhận được làn gió mát. Thiên nhiên trong quê hương là nguồn cảm hứng không lỗi thời cho tác giả, khiến ông cảm thấy phấn khích trong cuộc sống quê hương.
“Rừng xanh che phủ khắp nơi.
Thạch lựu hiên vẫn rực đỏ phô.
Hoàng liên nở trải mùi hương.”
Đây là những dòng thơ miêu tả vẻ đẹp của mùa hè trong quê hương ông, là hương vị mùa hè sôi động và quyến rũ. Hình ảnh của mùa hè hiện ra với những tấm nền nóng: màu đỏ của hoa rừng, màu lựu đỏ, màu hồng của sen và những cảm xúc được truyền đạt qua những từ ngữ như “che phủ”, “rực đỏ”, “nở trải” cho thấy một bức tranh về quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sống động của mùa hè.
Bức tranh về quê hương hiện ra với vô số màu sắc, với sự thay đổi và vẻ đẹp, là sự phát triển mạnh mẽ của thảo nguyên, cây cỏ. Nó mang lại cho chúng ta cảm giác yên bình, và cảm nhận được hương vị của mùa hè qua từ ngữ “nở trải”.
Ngoài ra, mùa hè còn đem lại cho tác giả những trải nghiệm mới mẻ như tham gia phiên chợ ở những làng ngư phủ. Cuộc sống ở quê hiện ra với sự sôi động hiếm có của con người ở đó. Phiên chợ phản ánh cuộc sống của người dân, dù giàu hay nghèo.
“Hỗn loạn phiên chợ ở làng ngư phủ,
Ngày đêm tiếng ve vang phủ dương”
Cuộc sống quê hiện ra sôi động, với phiên chợ của những ngư dân ở bên bờ biển, với những hình ảnh đẹp của những con người lao động, và với phiên chợ rộn rã của những lưới cá đầy hứng khởi.
“Dân giàu dồi dào từ khắp nơi”.
Âm nhạc của cây đàn vua Ngu Thuấn tạo nên một không gian ấm áp, hạnh phúc cho nhân dân. Hình ảnh của vua Ngu Thuấn với cây đàn ấy làm cho cuộc sống của nhân dân phong phú, giàu mạnh khắp nơi. Mặc dù quay về cuộc sống ở quê, ông vẫn giữ mãi tình yêu và mong muốn một cuộc sống an lành và hạnh phúc cho người dân.
Bài thơ là dòng chảy của cảm xúc về thiên nhiên và là niềm khát khao, tình yêu với đất nước của Nguyễn Trãi. Mặc dù ngắn gọn, bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Kết thúc bài thơ là tinh thần cao quý của nhân nghĩa và tình yêu dành cho nhân dân của ông.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi, một đại thi hào của dân tộc, một biểu tượng văn hóa của Đại Việt, cũng là tác giả của bài thơ kinh điển 'Bình ngô đại cáo'. Không chỉ nổi tiếng với bút pháp sắc sảo, lập luận sắc bén và thuyết phục trong những văn kiện chính luận, chúng ta còn thấy một Nguyễn Trãi thảnh thơi, hòa mình cùng thiên nhiên trong 'Bảo kính cảnh giới 43'. Bài thơ không chỉ chứa đựng tình cảm sâu sắc mà còn truyền tải thông điệp giáo dục, chiếu sáng lý tưởng của thi sĩ lớn Ức Trai.
Đầu tiên, bài thơ thể hiện tình yêu và sự giao hòa mạnh mẽ với thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình hiện diện trong tinh thần tự do và thoải mái: 'Rồi hóng mát thuở ngày trường'. Nguyễn Trãi là nhà thơ mê mẫn thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc bình yên vào một ngày dễ chịu, trong lành lại càng hiếm có. Nếu như các nhà thơ khác thường tập trung vào mô tả cảnh đẹp thì Nguyễn Trãi sử dụng từ ngữ để tả. Dưới sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã được tạo ra:
'Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương'
Cảnh vật được tô điểm bằng những sắc màu, trong sự kết hợp hài hòa: Màu lục của lá hòe kết hợp với màu đỏ của hoa thạch lựu dưới ánh mặt trời chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được mô tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh tràn đầy sức sống. Tác giả đã sử dụng các động từ mạnh mẽ như 'đùn đùn', 'giương', 'phun' để tạo ra sự đầy đặn và sức sống từ bên trong đang trào dâng và không thể kìm nén được và phải bộc phát ra ngoài. Nguyễn Trãi đã miêu tả cảnh sắc mùa hè thông qua hình ảnh rất đặc trưng: Sen nở trong ao đã tỏa hương thơm, tạo ra một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn dành hết tâm trí cho dân, cho nước. Mặc dù đang say sưa với vẻ đẹp sống động, dễ thương và tràn đầy sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn đặt ánh mắt quan sát của mình vào cuộc sống của con người:
'Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương'
Bức tranh mùa hè được thêm vào bởi những nét vẽ về cuộc sống của con người với âm thanh 'lao xao' từ chợ cá tại một làng chài ven sông cùng với âm thanh dặm dòi của cầm ve. Cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng của người dân đã gợi lên trong tâm trí tác giả một ước mơ cao cả:
'Để có được Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương'
Tác giả ước ao có chiếc đàn của vua Thuấn để tạo ra bản ca Nam Phong ca ngợi đời sống hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài thơ được xây dựng theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện sự rộn ràng của cảm xúc trong bài thơ. Bắt đầu bằng bức tranh thiên nhiên phong phú, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc với câu thơ về con người cho thấy điểm mà tác giả muốn nhấn mạnh không phải ở thiên nhiên tạo
vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: 'Non nước cùng ta đã có duyên' ('Tự thán'- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Mẫu 4
Lời giải chi tiết:
'Quốc Âm thi tập' - Nguyễn Trãi được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, mang đến nhiều đóng góp nổi bật cho nền thơ ca trung đại. Hầu hết, những sáng tác thuộc tập thơ này đều hướng tới chủ đề quen thuộc như: tình cảm đời thường, tình yêu thiên nhiên hay tấm lòng yêu nước, thương dân. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể bỏ qua thi phẩm 'Bảo kính cảnh giới' (bài 43). Với những đặc sắc về nội dung và độc đáo về hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Nguyễn Trãi từng là một danh tướng kiệt xuất, một nhà chính trị tài năng, và cũng là một thi sĩ vĩ đại của dân tộc. Tập thơ 'Quốc Âm thi tập' không chỉ là nơi ghi lại những trải nghiệm đời thường mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước sâu sắc và lòng trung hiếu cao cả. Trong số 254 bài thơ, 'Bảo kính cảnh giới' (bài 43) nổi bật lên với sự độc đáo về nội dung và hình thức, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.
Nguyễn Trãi, mặc dù là một chiến thần hiếu danh, nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc tĩnh lặng, tận hưởng sự thanh bình của thiên nhiên. Bài thơ bắt đầu với câu:
'Rồi hóng mát thuở ngày trường.'
Điều này không chỉ phản ánh một phong cách thơ mới lạ mà còn làm nổi bật sự thoải mái, yên bình trong cuộc sống hằng ngày của nhà thơ. Nguyễn Trãi thưởng thức khoảnh khắc bình yên của cuộc sống, nơi mà ông có thể thư thả, thảnh thơi trong làn gió mát dịu của mùa hạ.
Trong lúc ngồi thư thả, Nguyễn Trãi không khỏi cảm phục, xao xuyến trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên:
'Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương'
Không chỉ mô tả một cách chân thực và sinh động, Nguyễn Trãi còn gợi lên một cảm giác mãnh liệt về sức sống và vẻ đẹp của thiên nhiên. Bằng cách này, ông đã truyền đạt được sự phong phú và độc đáo của cảnh vật mùa hè.
Bức tranh thiên nhiên càng thêm sinh động qua âm nhạc của cuộc sống hàng ngày:
'Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.'
Nguyễn Trãi đã dùng từ ngữ và hình ảnh để tái hiện lại không khí sôi động của chợ cá và tiếng ve kêu trong buổi chiều tà. Qua đó, ông đã tạo ra một bức tranh sống động và sinh động về cuộc sống dân dã trên bờ biển quê hương.
Với hai câu thơ cuối cùng, Nguyễn Trãi bày tỏ ước mơ và hy vọng về một cuộc sống tươi đẹp, giàu có cho nhân dân:
'Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.'
Trong tâm trí của Nguyễn Trãi, việc có một cây đàn như của vua Ngu Thuấn có thể mang lại hạnh phúc và thịnh vượng cho cả dân tộc. Ông ước ao rằng mọi người trên mọi miền đất nước đều có cuộc sống dư giả, sung túc.
Bài thơ 'Bảo kính cảnh giới' (bài 43) không chỉ là một tác phẩm về cảnh vật thiên nhiên mà còn là một biểu tượng của tình yêu và lòng trung hiếu với đất nước. Nguyễn Trãi đã sử dụng ngôn từ mộc mạc, dân dã để mô tả lại vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên, góp phần làm nên một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của văn học nước ta.