Kế hoạch
1. Mở đầu
- Tổng quan về bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính.
- Tóm tắt về nội dung chính của bốn câu thơ cuối cùng.
2. Phần chính
a. Bốn câu cuối thể hiện nỗi nhớ và mong chờ trong tâm hồn của chàng trai
- Bốn câu cuối cảm xúc tiếp tục từ 'tương tư' trong các câu thơ trước.
- Tác giả thể hiện mở lòng, thổ lộ tình cảm qua các đại từ nhân xưng 'anh' và 'em'.
- Khao khát tình yêu được thể hiện qua hình ảnh 'giàn giầu' và 'hàng cau'.
- Nỗi nhớ, mong chờ lặng lẽ nhưng không nguôi nắng nên qua hai nơi không gian 'thôn Đoài', 'thôn Đông'.
- Câu hỏi nhỏ như là một lời vấn đề về ước mơ và hi vọng vào một tình yêu không thể trả lời, qua đó thể hiện tình yêu chân thành, giản dị của tác giả.
b. Bốn câu cuối thể hiện vẻ đẹp dân gian, chân phương trong thơ Nguyễn Bính
- Ngôn từ đơn giản, mộc mạc.
- Tiếng thơ đọng nhẹ nhàng, êm ái như những giai điệu dân ca sâu lắng tâm hồn.
- Thành công trong việc sử dụng những vật liệu về địa danh, cỏ cây đậm đà hương vị của làng quê Việt Nam: 'thôn Đoài', 'thôn Đông', 'giàn giầu', 'hàng cau',...
3. Kết luận
- Tóm lại vấn đề
Mẫu văn
Ví dụ số 1
Đó là thơ của Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học và thành đạt. Hoài Thanh, trong tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” đã ghi nhận rằng, khi mới 20 tuổi, Nguyễn Bính đã sáng tác gần một ngàn bài thơ. Trong số các loại thơ mà Nguyễn Bính sử dụng, thơ lục bát được coi là thành công nhất, trong đó, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, đây là điều mà ta cảm thấy vô cùng quý báu, đó chính là “hồn xưa của đất nước”.
Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một âm điệu đặc biệt, đẹp như ca dao, mang nét đặc trưng của ca dao... Nhiều câu thơ và đoạn thơ đã thấm vào tâm hồn chúng ta mãi mãi:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?”
Đoạn thơ trên được trích từ bài thơ “Tương tư”, thuộc tập thơ “Lỡ bước sang ngang’’ (1940) của nhà thơ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu mô tả nỗi buồn nhớ và tương tư, cùng với sự trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”... Bốn câu cuối diễn đạt ước mong của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một cô gái khác thôn trong làng.
Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau một cách tự nhiên, hồn nhiên như duyên trời đã sắp đặt giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh, giữa thôn Đoài và thôn Đông, giữa giầu và cau. Âm điệu của thơ thì ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ cách gọi “nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành “em” thân thiết, gần gũi: “Nhà em có một giàn giầu ...” Cách xưng hô từ “tôi” - “nàng” dần trở thành “em” - “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.
Giầu (trầu) và cau từ lâu đã cố kết bền đẹp, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một duyên đẹp kì lạ:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
Điệp ngữ “nhà ... có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự đồng lòng tồn tại. Mặc dù “hai thôn chung lại một làng” không xa xôi lắm, nhưng “giàn giầu” của nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn phân chia ở hai phía không gian. Nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ “có một” chưa có đôi. Từ “một” trong hai câu thơ thể hiện ước mong về hạnh phúc đôi ta: duyên giầu - cau cũng là duyên bền chặt, sắt son, thủy chung.
Trong bài thơ “Tương tư”, Nguyễn Bính đã sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra”
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Và kết thúc bài thơ, chàng trai tự hỏi trong mơ ước và hi vọng:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?’’
Cả một thời thương nhớ, không chỉ tôi nhớ em, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một cách nói tắt, tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ cùng cấu trúc tắt nhưng thể hiện một tình yêu chân thành với một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy là một tình yêu nhân văn.
Đoạn thơ này thể hiện vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã sáng tạo với các phong cách văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu nhịp điệu để thể hiện khao khát tình yêu hạnh phúc của đôi lứa. Một tình yêu chân thành, sâu sắc. “Tương tư” chứa đựng nỗi buồn, nhưng kết thúc đã mở ra một cánh cửa hi vọng.