Một sự kiện du xuân - đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời đầy màu sắc và phong phú của Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần đầu tiên trong chuỗi biến cố thông thường của câu chuyện cổ điển: 'Gặp gỡ - Tai nạn - Hòa nhập'. Chúng ta sẽ thấy một bức tranh thiên nhiên tươi sáng và sôi động, với hình ảnh chim én bay qua lại, những đám cỏ xanh tươi và cành hoa lê trắng tung bay...
1. Một phong cảnh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội.
Con người trong ngày Thanh minh sửa sang mộ và tưởng nhớ về quá khứ - đây là nghi lễ truyền thống. Nguyễn Du đã thể hiện sự khéo léo trong ngôn từ ngay từ câu thơ đầu tiên nói về một hoạt động hằng ngày: 'Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh'. Lễ hội và hội hè có thể có mối liên kết chặt chẽ, nhưng chúng vẫn là hai loại sinh hoạt văn hóa khác nhau: Hội đạp thanh là một dịp vui chơi trên bãi cỏ xanh của tuổi trẻ... Hội đạp thanh là một phần của cuộc sống hiện tại và có thể tìm kiếm những kỷ niệm hạnh phúc trong tương lai...
Sau câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ và sáng sủa. Dù chỉ là những ghi chú ngắn gọn, nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng ngôn từ dân tộc (bao gồm cả những câu thơ bằng chữ Nôm), chọn lọc những hình ảnh, màu sắc để tạo ra một bức tranh tổng thể phù hợp giữa bầu trời xanh và chim én đậm màu sắc, cành hoa lê trắng trên nền cỏ mùa xuân...
Tiếp theo là mô tả về lễ hội. Một chuỗi từ ngữ mô tả hoạt động hối hả, náo nhiệt, vui vẻ của mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, với ngựa và quần áo đầy màu sắc... Lễ viếng mộ diễn ra hùng vĩ và vui vẻ, xen kẽ vào ngày hội gặp gỡ của tuổi trẻ đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân, khi cây cỏ và hoa lá vẫn đang rực rỡ màu xanh, khi ánh sáng mùa xuân dường như đang ấm áp hơn.
Như một ánh sáng mùa xuân, niềm vui của ngày hội lan tỏa khắp nơi (bao gồm cả ba chị em họ Vương). Thông qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã mô tả một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một phong cách sống của gia đình họ Vương.
2. Một nơi an nghỉ vô danh và một số biến cố không may
Thời gian đã trôi qua, ánh dương nghiêng nghiêng về phía tây 'Bóng chiều dần nghiêng về phía tây'. Nhưng không chỉ là hoàng hôn của cảnh đẹp, dường như con người cũng lặng lẽ trong một tâm trạng khó diễn đạt. Trong văn học Trung cổ thường gợi lên những ý niệm về nhớ nhung, hoài niệm hoặc tuyệt vọng bi thương “Quán thu đứng vũ tà huy - Ải đem nhân ảnh nhuộm màu hoàng hôn...' (Cung oán ngâm khúc). Cuộc du xuân đã kết thúc, lễ hội đã tan biến sôi nổi. Tâm hồn con người dường như theo sự thay đổi của thời gian và sự chấm dứt của tiết Thanh minh để mang chút lạnh lùng trong lòng trên con đường trở về. Thời gian và tâm trạng đó là dấu hiệu cho sự biến đổi trong không gian. Ở đây chỉ có ba hình ảnh để mô tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, một cái cầu nhỏ và một nơi nghỉ vô danh. Cũng chỉ là những dòng bút tóm tắt qua sáu câu thơ. Ngược lại với cảnh đông đúc của lễ hội ở trên là một không gian yên tĩnh với dòng suối nhỏ uốn khúc nhẹ nhàng, dòng suối nhỏ tội nghiệp đến mức chỉ cần một 'nhịp cầu nhỏ' để con người bước qua... Sự mô tả về dòng suối có thể là mô tả về sự nao nức và xao xuyến của trái tim con người? Giữa phong cảnh và trái tim con người, có vẻ không có lối thoát... Tương tự, Nguyễn Du sử dụng các từ kép như: “sè sè” “dàu dàu...' để miêu tả hình ảnh một số phận bé nhỏ. Và riêng ngọn cỏ ở đây không mang màu sắc 'xanh ngát từ chân trời' như trên kia, mà lại chứa đựng màu vàng úa và 'dàu dàu' héo hon, buồn rầu... Những từ như 'thanh thanh, nao nao, dàu dàu' biểu hiện sắc thái của phong cảnh nhưng cũng tiết lộ tâm trạng của con người.
Một cảnh hoàng hôn đại diện cho sự tàn lụi của ngày, đối lập với thiên nhiên tươi sáng trong tiết Thanh minh, một nơi nghỉ cuối cùng cô độc đối lập với lễ tảo mộ đông đúc và sôi động... Một bức tranh đối lập khiến con người đầy cảm xúc phải tự hỏi một câu: 'Tại sao trong tiết Thanh minh, Nơi này mùi khói vắng vẻ thế mà?. Khung cảnh hoang vắng và buồn thê lương ấy chứng minh một câu chuyện đau lòng về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị quên lãng...